Ban biên tập xin gửi đến quí vị “Những Bức Thư Của Cha Thánh Gioan Théophane Vénard (Ven)”. Xin gửi đến quí vị bức thư đầu tiên của Ngài, đây là một bức thư được Ngài gửi về cho Gia đình sau hơn 1 tháng Ngài bị bắt.
Từ nhà tù Kẻ Chợ, cựu Kinh đô xứ Bắc ngày 02 tháng 01 năm 1861.
Kính thưa Cha, Mẹ, thăm em, thăm chị quý mến.
Con viết thư cho Cha mẹ vào đầu năm nay, hẳn là năm cuối cùng của đời hành hương của con trên cõi trần. Con đã gửi một lá thư nhỏ để báo tin cho cha mẹ biết con đã bị bắt ngày 30 tháng 11, ngày lễ thánh Anrê trong một làng có đạo. Thiên Chúa đã để cho con bị bắt vì một người xấu mới theo đạo, nhưng con không thù hận nó. Từ làng đó con được đưa về phủ và con đã ghi mấy dòng chữ từ biệt, lúc người ta lấy gông cùm kẻ sát nhân đặt vào cổ con, cẳng chân con. Con đã hôn cái xiềng xích xinh đẹp đó, là xiềng xích đích thực của con, làm cho con thành nô lễ Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria. Con sẽ không hề đổi để lấy vàng lấy bạc đâu. Viên quan đã có nhã ý thưởng riêng cho con một xích nhẹ hơn và trong 3 ngày họ cầm giữ con, vì chờ một toan tính từ phủ tới điệu con đi, ông đã đối xử với con rất nhã nhặn. Ông chú của ông ít ra đã mười lần bảo con đạp ảnh Thánh giá, vì thương con, thấy con đi đến cái chết lúc còn xuân xanh.
“Khi ra khỏi phủ thì rất đồng người chờ đón con đi qua; một Kitô hữu trẻ tuổi tù tội vì Phúc âm, đã không sợ đến quì trước cũi con và trước mặt các viên quan, vì rất đông người, nhận con là xứ giả của Thượng đế”.
“Sau 2 ngày, con tới Kẻ Chợ, Kinh đô của xứ bắc. Cha mẹ con điềm đạm ngồi trong cũi gỗ, có 8 lính khiêng giữa đám dân rất đông, họ đổ nhau ra xem không?. Con nghe họ xì xào với nhau rằng: “Người Tây Dương xinh quá hừ! xem ra ông không sợ hãi! ông này có tội tình gì đâu! ông tới nước Annam để làm sự lành, sự phải, thế mà người ta đem sử tử ông!…v.v”.
“Bọn con vào thành qua cửa đông và người ta dẫn con tới toà hình sự. Thày giảng của con tên là Khang, Cũng bị bắt cùng với con, Thày đi theo sau cũi con, cổ đeo gông, con cầu xin Chúa Thánh Thần cho Thày và con được vững niềm tin và nói qua miệng cho chúng con theo như Chúa Cứu Thế đã hứa. Con khẩn cầu Nữ Vương và các Thánh Tử đạo và khẩn này người giúp đỡ tối tớ hèn mọn của Người”.
“Trước hết quan toà thưởng cho con một chén chè tầu, con uống ngon lành trong cũi. Rồi ông bắt đầu tra hỏi theo tục lệ. Ông hỏi con ở đâu và con thưa con ở nước Đại Tây Dương tên là Pháp – Anh tới nước Annam làm gì?- Tôi chỉ đến giảng đạo thật cho những người chưa biết mà thôi- Anh mấy tuổi? – 31 tuổi- quan toà có vẻ thương hại: “Chà còn trẻ quá à!” Rồi ông hỏi: “Ai sai Anh tới đây?”- Con đáp: “không phải vua, cũng không phải quan nước Pháp sai tôi. Tự ý tôi, tôi tự nguyện đi giảng cho lương dân; và các đấng bề trên trong đạo tôi chỉ cho tôi nước Annam là nơi tôi đến giảng- Anh có biết giám mục Liêu không? (đó là tên Việt của Đức Cha Retord) – Có.- tại sao giám mục Liêu đã biên thư cho tướng phản động để mộ người có đạo? – Tôi giám xin quan, quan căn cứ vào đâu mà có tin đó?- Tỉnh trưởng Nam Định đã biên thư cho chúng ta- vậy thì tôi làm chứng, đó là không đúng sự thật. Đức Giám mục Liêu là người rất khôn ngoan không thể làm điều dại dột như thế; nếu bắt được giấy tờ thư từ thì là giấy giả mạo. Tôi biết có một thư chung của giám mục Liêu Viết cho các Linh mục, ngài cấm không được theo các tướng phản động và Ngài tuyên bố nghìn lần thà chịu chứ không hề nhúng gậy giám mục vào vũng máu.- Nhưng còn giặc Tây dương đã chiếm đà nẵng và Đồng Nai thì ai sai chúng?- Thưa quan tôi nghe nói chung quanh tôi là có giặc giã chiến tranh, nhưng vì không liên lạc với những giặc Tây dương đó nên tôi không thể trả lời câu hỏi của quan được.
“Thế rồi ông tỉnh trưởng tới. Vừa ngồi ông liền quát lên một tiếng rùng rợn: “à! Anh có bộ mặt đàng hoàng, Anh biết rằng luật Annam cấm không cho người Tây dương vào xứ này, anh tới đây tìm cái chết để làm gì? chính anh đã xúi tàu tây tuyên chiến với chúng ta phải không?, anh phải nói thật, nếu không anh sẽ bị tra tấn.- Thưa quan lớn, quan hỏi tôi 2 điều: Về điều thứ nhất, tôi xin trả lời: là sai viên của vua trời đất, tôi đến giảng đạo thật cho người chưa biết, bất cứ ở đâu, bất cứ ở nước nào. Chúng tôi rất tôn trọng quyền các vua dưới đất này, nhưng chúng tôi còn tôn trọng quyền vua trời hơn nữa. Về điều thứ 2 tôi đáp là không bao giờ xúi dục người Tây dưong tuyên chiến với nước Annam.- Vậy thì anh có muốn đến bảo chúng rút quân đi và ta sẽ tha cho anh?- Thưa quan lớn, tôi không có quyền chức gì để dàn xếp việc như thế; nhưng nếu nhà vua trao cho tôi xứ mệnh đó, thì tôi giám chắc là sẽ thất bại trước va không trì hoãn tôi sẽ trở lại nhận cái chết- Anh không sợ chết ư?- Thưa quan lớn, tôi không sợ chết. Tôi đến đây giảng đạo thật, tôi không phạm tội trọng nào đáng chết; nhưng nếu nước Annam giết tôi, thì tôi sẽ vui mừng đổ máu vì nước Annam. – Anh có hận thù người đã bắt anh không?- không hề, đạo Kitô dạy phải yêu những kẻ ghen ghét mình.- là Đạo Trưởng, Anh phải kê khai các nơi đã chứa chấp anh cho tới ngày hôm nay.- Thưa quan lớn, người ta thường gọi quan lớn là phụ mẫu dân: nếu tôi kê khai, thì tôi sẽ làm khổ cho dân rất nhiều. Quan lớn hãy nghĩ mà xem, việc đó có nên hay không? –hãy đạp Thập Giá đi thì Anh sẽ được thoát chết. – Sao! Tôi giảng đạo Thánh Giá cho tới ngày hôm nay mà quan lớn lại muốn tôi chối bỏ ư? Tôi không quá thiết sự sống đời này để có thể đổi lấy bằng một sự chối đạo. – Nếu anh quí chuộng cái chết, thì sao anh lại đi chốn ẩn để khỏi bị bắt? – Thưa quan lớn, đạo dạy không được quá tự kiêu ttự đại để ra nộp mình. nhưng trời cho phép tôi bị bắt, tôi xin Người sẽ cho tôi ơn để tôi chịu tất cả các cực hình và trung kiên cho tới chết.
“ Tóm lại đó là các câu chất vấn quan trọng hơn cả người ta đem ra hỏi con và bắt con đối đáp. Các quan cũng tra hỏi thày giảng của con và đánh đập thày mười trượng. Chúa đã cho Thày sức chịu đựng và tuyên xưng đức tin”.
“ Từ ngày con ở trong cũi đặt ở nhà quan tỉnh trưởng, dưới mắt một đội lính vệ Đàng Trong, có nhiều người thuộc nhiều cấp bậc trong xã hội tới thăm con và nói chuyện với con. Người ta cứ nhất định cho con là một lương y mát tay, một nhà thiên văn lỗi lạc, một thày bói, một tiên tri biết trước hết mọi sự. Vì thế, có khá nhiều người nghiêm chỉnh xin con đoán số cho họ. Có người hỏi con về tình hình âu châu, về nước Pháp hay tóm lại, về thế giới. Thế là con có dịp soi sáng cho họ về nhiều điều lắm, những điều mà họ có những suy nghĩ rất kì khôi. Con cố gắng cho họ biết về sự rỗi linh hồn; những người Annam có tính nhẹ dạ hời hợt,- không thích nghe những điều nghiêm chỉnh. Trái lại họ có lòng rất tốt, họ để ý tới con và thương con. lính canh gác con cũng tỏ ra mến con và mặc dầu 2 lần họ bị quan trên quở, vì để cho con ra khỏi cũi để đi bách bộ thở không khí tốt, họ vẫn thỉnh thoảng mở cũi cho phép con đi dạo 10 phút.
“Nhưng con phải nói là tất cả không phải toàn hoa hồng và hương thơm đâu. Nếu rất nhiều người có thiện cảm với con, thì cũng có người chửi bới con, chế nhạo con, nói xấc xược với con. Xin Chúa tha thứ cho họ”.
“Bây giờ con bình tĩnh chờ ngày Thiên Chúa cho phép con dâng máu con lên Ngài. Con không tiếc đời sống trần gian này; Lòng con khát nước hằng sống. cuộc lưu đầy sắp chấp dứt; con đặt chân lên đất quê thật: Đất lui đi và trời mở ra. Vĩnh biệt Cha, vĩnh biệt chị, em! Đừng khóc con nhé. hãy sống bình an trong cuộc đời ngắn ngủi này. hãy giữ đạo. đừng để mình lỗi phạm. một ngày kia, chúng ta sẽ gặp nhau trên thiên quốc và sẽ hưởng hạnh phúc thật cùng với Thiên Chúa, Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, các thiên thần và các thánh. Vĩnh biệt! Con muốn viết cho từng người một, nhưng không thể làm được, Cha có thể đoán được cõi lòng con, thưa cha yêu quí, cha già yêu quí, chị Mélanie người thân yêu, Henri quí mến, Eusèbe thân thương. Vĩnh biệt tất cả những người đã yêu thương con, nhất là linh mục Pariot thân thương! từ 3 năm nay con không nhận được tin tức từ Pháp. Con không biết ai còn, ai mất. Vĩnh biệt !
“Tù nhân của Chúa Giêsu Kitô gửi tới tất cả lời chào vĩnh biệt. Trng ít ngày nữa, chắc là của lễ sẽ hoàn tất.
J. Th. Vénard kí
(Theo: Giuse Trần Văn Bắc – Nguồn: Vietcatholic.net)
TIN LIÊN QUAN: