Dù bản thân đang hướng tới thiên chức linh mục triều, nhưng tôi không phủ nhận trên hành trình ơn gọi của mình đã may mắn được gặp gỡ và học được nhiều bài học đẹp, đáng nhớ từ những tu sĩ. Quả thực, vẻ đẹp muôn màu của các thầy, các sơ không chỉ chiếu tỏa từ những bộ áo dòng đã làm say mê cậu bé giúp lễ năm nào, mà trên hết là niềm vui phục vụ, sự dịu dàng, bền bỉ kiên nhẫn đầy vẻ thánh thiện mới đích thực là ánh sáng phát ra từ nơi họ. Tôi viết những dòng này để xin được kể ra đây kỷ niệm về thầy tôi – một người tu sĩ đã gắn bó với tuổi thơ và Ban Lễ sinh của chúng tôi.
Tôi nhớ lần cuối cùng tôi gặp lại thầy là vào lễ cưới của người bạn giúp lễ cùng ở Giáo xứ quê nhà. Chú rể chia sẻ, 1 tháng trước ngày cưới, hai bạn trẻ đã liên lạc và xuống tận cộng đoàn của thầy đang ở để mời bằng được thầy lên dự ngày vui này. Và thầy lên thật! “Vì nể chú rể là trưởng giúp lễ, suốt năm đó đã chịu nhiều trận mắng của thầy”, thầy chia sẻ khi tôi hỏi về sự hiện diện đặc biệt ưu ái của thầy dành cho chú rể.
Năm đó, khi cha cố về xứ ổn định được 2 – 3 năm, cha cố rất quý và gần gũi trẻ con, nên cứ cậu nào làng nhàng lớn là cha cố lại cho vào Ban Lễ sinh để gần Chúa, gần cha thì đi tu hết. Và thế là chỉ sau ít bữa, Ban Lễ sinh từ 10 – 12 chú đã lên tới 40 – 50 chú, và theo như lời cha cố thì làng có 6 xóm, mỗi xóm phải tuyển 12 chú như 12 môn đệ, vậy là còn 10 chỉ tiêu nữa cho tròn 60 lễ sinh.
Nhưng trẻ con mà, “cả thèm chóng chán”, số lượng đông mà có Thánh lễ sáng chỉ độc thấy cha chủ tế với ông trùm phòng thánh, còn các con lễ sinh thì đang bận ăn bận ngủ. Thế là, cha cố lại phải nghĩ cách làm sao để giáo dục, huấn luyện cho lớp Lễ sinh này về lâu về dài. Đó là lý do thầy được mời đến và đồng hành với anh em lễ sinh chúng tôi trong gần 3 năm liền. 3 năm đáng nhớ của tất cả và cũng có thể là 3 năm đáng đời của rất nhiều các chú giúp lễ còn ngỗ nghịch.
Tiếp quản một Ban Lễ sinh đông đảo hơn cả một lớp học, với độ tuổi đa dạng từ mầm non lớp 4, lớp 5 đến lớp 9 lớp 10 là cả một thử thách với bất cứ nhà đào tạo nào. Nhưng với thầy Pháp, tôi cảm nhận, thầy rất bình tĩnh và cầm chắc phần thắng sẽ chinh phục được cái đám ồn ào, mất trật tự đang ngồi dưới. Và thực sự là đến nay, thầy đã thành công, thành công hơn cả điều mà cha cố mong đợi. Vì trong gần 60 anh em lễ sinh chúng tôi lứa đó, đã có những ơn gọi nảy mầm, cũng đã có nhiều anh em được thầy khích lệ để học lên nhiều ngành trên Đại học (nay đã có thầy thuốc, kỹ sư, người kinh doanh,…) và đơn giản, tất cả anh em chúng tôi đều cảm mến công ơn thầy để sống làm một người ngoan đạo dù có người phải xa quê sinh sống làm ăn.
Khi gặp lại thầy vào dịp lễ cưới kia, tôi cùng những anh em học trò quây quần bên thầy có cơ hội chia sẻ, bày tỏ tâm tình với thầy và cùng nhau ôn lại, nhìn lại những kỷ niệm khi trước. Tôi lại thấy thầy mỉm cười, thấy thầy nghiêm mặt như những buổi học hôm xưa. Tóc thầy bạc nhiều nhưng cái chất tu vẫn không hao mòn, không suy chuyển.
Ngày ấy, bằng một cách phi thường nào đó, thầy đã đưa cả Ban Lễ sinh đi vào quy củ chỉ trong thời gian rất ngắn (tôi nhớ chắc chỉ độ 1 tháng). Thầy soạn và phân chia lịch giúp lễ cụ thể; gạch đầu dòng những Nội quy cơ bản của Lễ sinh; những điều phải làm và không được phép làm; quy định rõ từ kiểu tóc, loại dép được mang. Nội quy cũng chỉ rõ phần thưởng khi làm tốt và chế tài nếu vi phạm, tạo bầu khí thi đua theo nhóm/tổ. Thầy giao thêm việc dọn vệ sinh Cung Thánh, phòng Thánh mỗi cuối tuần; gây quỹ bằng việc đi ve chai đầu tháng, nhất là chọn Thánh bổn mạng và mừng ngày lễ này rất to (tương đương như một Hội đoàn trong xứ). Chỉ điểm sơ vài nét như thế, nay khi nhìn lại thì thấy là bình thường, nhưng ngày ấy, với một đám trẻ ồn ào và vô tổ chức mà thầy vẫn làm được, lại còn làm rất tốt. Như một cuộc cách mạng vậy! Ban Lễ sinh có đồng phục, có nội quy, có Thánh bổn mạng… Oai như người lớn!
Nhưng không chỉ như người lớn mà thầy đã dạy chúng tôi phải trưởng thành đích thực. Tuần nào cũng sẽ có một buổi học/gặp mặt chung với thầy, ở đó, thầy dạy chúng tôi về việc giúp lễ, về Thánh lễ nhưng quan trọng hơn là “Nhân Bản” – Trước tiên các con phải học làm người và làm con Chúa. Những bài học mà thầy dạy, cho đến tận khi đi học Ứng sinh sau này, tôi vẫn được dạy lại như thế.
Thầy còn dạy chúng tôi phát biểu chào mừng, cảm ơn, chúc tết cha xứ như các ông trùm. Thầy dạy cách để lên chương trình tổ chức, xin phép bề trên thế nào, viết thông báo với các bạn ra sao… Những việc như thế, thầy làm mẫu một lần và lần sau thì chính các anh lớn phải làm, như việc phân chia giúp lễ cho các em. Ông bạn chú rể lúc ấy là anh trưởng, tôi và hai anh em nữa làm phó rồi thủ quỹ, thư ký thường xuyên bị thầy nẹt cho trước lớp như thế. Sau này, thầy nói là, thầy mắng các con để làm gương cho các bạn, các em nữa. Nhưng chính lúc được làm và bị quở trách như thế, chúng tôi đã mạnh dạn, trưởng thành và độc lập hơn rất nhiều. Để rồi sau khi thầy rời đi, anh em chúng tôi đã vận hành đều đặn được một Ban Lễ sinh với số lượng lớn như thế. Và các lứa sau này, tôi nhận thấy các em vẫn đang được tổ chức với dáng dấp, duy trì một bộ khung như chúng tôi ngày trước. Đó là dấu ấn đậm nét mà thầy để lại như một thứ di sản trong tôi và nhiều anh em đồng trang lứa.
Nhìn về nơi thầy, tôi thấy toát ra một thần thái mà tôi gọi là “chất tu” – thầy nhìn vừa có vẻ hiền hậu, nhẹ nhàng nhưng cũng đầy vẻ cương trực, nghiêm túc. Tôi nay cũng đã theo ơn gọi được cả chục năm và cố hình dung, đôi lúc bắt chước cái dáng vẻ ấy của thầy mà chưa bao giờ được, quả là khó.
Thầy không phải động tay với đám lễ sinh chúng tôi như các ông quản, bà quản nhưng thầy chỉ cần gọi tên lên và đọc lỗi thôi thì các con giời ở dưới đã run cầm cập. Thầy cũng có một cách quan sát và ghi nhớ rất tốt, bởi các lỗi mà thầy nói đều chính xác cả, thậm chí có khi thầy còn nhắc lại bối cảnh mà chú giúp lễ ấy đã sai.
Cái chất tu của thầy còn toát lên ở sự gọn gàng, ngăn nắp. Tôi nhớ có một lần khi đang học thì mất điện. Cả đám thì ồ lên nhao nhao, nhưng thầy chỉ hắng giọng một tiếng để thiết lập trật tự, sau đó, thầy đã mời tôi đứng lên, làm theo đúng chỉ dẫn của thầy và tìm được cây nến cùng cái bật lửa để thắp sáng phòng học. Và thầy nói: Một người gọn gàng và kỷ luật thì để bất cứ vật gì ở đâu, nhắm mắt họ cũng thấy được. Sau này, tôi nghĩ, một người đi tu nếu đời sống cũng kỷ luật, gọn gàng (không lôi thôi), chuyên chăm cho việc tìm kiếm Ý Chúa thì ắt họ sẽ tìm thấy.
Thầy – một nhà đào tạo đầy “chất tu” và sống một đời sống kỷ luật như thế đã in dấu trong tôi hình ảnh đẹp về một người tu sĩ khiêm tốn, bền bỉ theo năm tháng. Cho đến ngày tôi gặp lại thầy, nơi thầy vẫn y nguyên là một bậc tu trì nghiêm túc không thay đổi. Thực tình, chúng tôi vừa mến thầy mà cũng vừa sợ thầy[1].
[1] Cũng là tâm sự của chú rể nói với tôi khi mời được thầy lên dự đám cưới
Cây Dâu
Trích “Nội san Nhà Chung”
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org
TIN LIÊN QUAN: