Tròn một năm sau kì nghỉ Tết sum vầy, đại gia đình tôi liên tiếp nhận hai tin buồn, đó là sự ra đi của ông nội và người bác rể cả. Khi ông nằm xuống, bao kỉ niệm về ông trong mỗi giai đoạn lớn lên và trưởng thành của tôi bỗng chốc ùa về.
Tôi khâm phục sự kiên cường của ông, niềm khao khát sống tín trung với Chúa và Đức Mẹ đến hơi thở cuối cùng. Những bài học đức tin và sống đạo ông dạy, anh em chúng tôi không bao giờ quên.
Các cụ tôi có truyền thống đạo đức từ xưa. Các cụ làm quản giáo rồi làm trùm, đào hầm cho các linh mục, thầy giảng chạy loạn hoặc ẩn nấp, dạy giáo lý và Trao Mình Thánh Chúa. Khi ông nội tôi lên 7 tuổi thì cụ nội “mua trùm” cho ông.
“Mua trùm” theo lời kể của các cụ là một truyền thống làng xã, theo đạo thì là truyền thống đạo đức. Các cụ cho con cái ở với các cha để sống đạo và giữ đạo rồi về lo gầy dựng đức tin nơi quê hương. Gia đình nào có tiền thì mua trùm cho con từ 7 tuổi, ai ai cũng gọi là trùm dù nhỏ tuổi; nhà nào không có tiền, 50 tuổi cũng không kể là gì. Ông tôi được cụ nội cho đi học, ở cùng các cha ở trường Lê Bảo Tịnh. Sau đó, vì là con một nên cụ tôi cho ông về lấy vợ. Ông bà trồng trầu, nấu rượu và dạy giáo lý cho mọi người. Hồi ấy bắt đạo gay gắt, mỗi lần đánh kẻng học giáo lý là có hàng xóm ngoại giáo đi báo chính quyền. Khi ông đi bán trầu thì họ bắt ông ở giữa đường, rồi cho người tới cuốc hết nền nhà xem có lưu trữ hay cất giấu sách vở, giáo lý gì hay không. Ông đi tù chính trị 7 năm, bị đày từ Ba Sao lên Phú Thọ. Mỗi bữa ông được ăn 63 hạt ngô. Có những bạn tù hình sự bị đánh đập, bị bỏ đói và hay xin vỏ ngô, khoai của ông để ăn, nhưng ông không cho vỏ mà nhường cả phần ngô, khoai của mình cho họ. Ở trong tù, ông gặp được những quản giáo, thanh niên Công giáo xung phong thì quy tụ mọi người đọc kinh, giữ đạo. Ông có người bạn tù tri kỷ mà mãi sau này khi ra tù, vẫn tìm thấy nhau dù ngăn sông cách trở. Nhờ thế, đại gia đình chúng tôi có thêm những người ông, người bác và anh chị em ở miền Hải Hậu – Bùi Chu. Để rồi mỗi lần quy tụ, chúng tôi bị cuốn vào những câu chuyện li kỳ của các ông.
Khi đi tù, ông xin nửa chiếc chăn gụ của cụ để đem theo và khi về thì gửi lại cụ. Cụ quỳ sụp xuống cảm tạ Đức Mẹ đã gìn giữ con trai của mình trở về bằng yên. Và có lẽ từ ấy, ông phó mình cho Đức Mẹ luôn luôn. Chiếc chăn ấy còn giữ mãi đến sau này, để kể với con cháu như một chứng tích lịch sử của thời bắt đạo gian khổ.
Sau khi ra tù, ông bà tiếp tục làm trầu, bên cạnh đó ông còn chuyên lo phụng sự nhà Chúa qua nhiều thập kỷ. Ông làm từ trùm Thánh Thể đến trùm kiến thiết nhà thờ. Vì bà nội mất sớm, nên một mình ông lo dạy kinh bổn, giáo lý cho các con. Những câu bổn cũ ông dạy bố, rồi sau này bố lại truyền cho tôi:
Hỏi: Phải làm thế nào cho được thanh nhàn vui vẻ vô cùng?
Thưa: Phải giữ Đạo Thánh Đức Chúa Trời.
Hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng nào?
Thưa: Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên trời đất muôn vật cùng hằng gìn giữ cai trị mọi sự…
Con ai? Con Đức Chúa Trời.
Cháu ai? Cháu ông Adong.
Dòng dõi ai? Dòng dõi Vua Đavit.
Họ hàng ai? Họ hàng với các Thánh.
Vây cánh ai? Vây cánh Đức Mẹ.
Những câu bổn câu hỏi – thưa như khắc ghi vào hồn cốt thế hệ con cháu chúng tôi. Ông khuyên răn chúng tôi cậy trông vào Chúa luôn mãi, dâng mình cho Đức Mẹ và chăm lần hạt Mân Côi. Chúng tôi được giữ gìn an lành tới giờ qua nhiều biến cố chắc hẳn là nhờ vào những lời cầu xin tha thiết của ông.
Chúng tôi ở gần ông nên mỗi khi đi ăn cỗ, ông đều lấy phần cho. Có khi là quả trứng vịt lộn, có khi là quả quýt nhỏ, hoặc miếng giò thơm. Ông đạp xe về nhà, dựng xe và ngồi ở hiên đợi chúng tôi đi học về để phát cho từng đứa. Lâu dần thành thói quen, nên hễ có đám nào ở quanh làng là chúng tôi luôn hóng quà của ông. Hoặc mỗi lần thay bánh lễ ở nhà thờ, ông dồn bánh cho vào ống bơ và mang về cho chúng tôi. Tụi tôi chia nhau đóng giả cha làm lễ rồi lên rước lễ. Những trò chơi đơn sơ hồi ấy dần dần trở thành động lực giúp chúng tôi kiên vững hơn trên con đường dâng hiến.
Mặc dù đã 95 tuổi nhưng ngày nào ông cũng đi xe lăn tập thể dục gần 2km mới về. Ông chuyên tâm lo cầu nguyện, lần chuỗi liên tục cho mỗi gia đình, cho từng đứa cháu, cho sự phát triển của Giáo xứ.
Sau Tết, tôi có cơ hội trị liệu cho ông nên được ông kể nhiều chuyện, khuyên nhiều điều. Ông khao khát sống mãnh liệt, kiên trung vào Chúa và Đức Mẹ đến hơi thở cuối cùng. Khi cơn đau bụng lên quằn quại, bác sĩ bắt tháo hết tràng hạt và vòng cổ vứt ra ngoài, ông đòi lại và nắm chặt, làm dấu phó thác liên tục. Ở bên ông, tôi ngỡ như ở cùng một tượng đài sống của thời cuộc, từ lịch sử xóm đạo cho đến lịch sử quốc gia. Ở bên ông, tôi được tiếp thêm sức mạnh cho những khao khát, những ước vọng cho những mảnh đời. Giờ đây ông không còn nhưng tôi tin chắc rằng, sự ra đi của ông trong mùa Chay Thánh đã giúp ông cảm nghiệm được sự đau khổ ông mang do căn bệnh trọng, giúp ông hiệp thông vào sự đau khổ của chính Chúa Ki-tô, qua đó được thông phần ơn cứu độ với cuộc khổ nạn của Ngài. Tôi không bao giờ quên nghị lực kiên cường của ông đã bảo vệ đức tin và giữ ngọn lửa nhiệt thành với việc nhà Chúa. Đặc biệt là gương sống đạo qua những chuyện ông kể, qua việc ông làm và cách ông sống.
Chúng tôi chỉ nguyện ước mãi noi theo tinh thần đó của ông. Để xuyên qua sa mạc nơi trần thế này chúng tôi được dừng lại, được tự do thoả lòng bên Suối Nguồn đích thực. Để dù “Có những ngày thời gian ngưng đọng trong một giấc chiêm bao, hoa hồng vàng chết lặng…tiếng chim hót ngoài kia cũng hoá thành từng giọt nước mắt”. Tôi tin trong mỗi chúng ta đều có những người ông người bà, những cây cổ thụ sống toả bóng rợp trời nơi mỗi cuộc đời ta.
Anh Jena
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org
TIN LIÊN QUAN: