Con chào “cha”!
Không biết tự bao giờ, danh xưng “cha” đã được mọi người Công giáo dành riêng, một cách kính trọng và cũng rất thân tình để gọi các linh mục. Tuy nhiên, danh xưng này cũng gây không ít thắc mắc cho mọi người, đặc biệt những người ngoài Công giáo. Khi tham dự Thánh lễ Truyền chức hay Thánh lễ Tạ ơn, họ băn khoăn: Tại sao một linh mục trẻ trung, không vợ, không con, được gọi là “cha”?
Không chỉ người lương dân, nhiều người Công giáo cũng chưa thực sự hiểu thấu căn nguyên việc gọi các linh mục Công giáo là “cha”. Và có lẽ, ngay cả đối với các linh mục, nhiều người cũng không hiểu tại sao người ta gọi mình với tước vị “cha”. Hơn cả sự thân thương, gần gũi và kính trọng, danh xưng “cha” dành cho người linh mục Công giáo mang một ý nghĩa thẳm sâu và huyền nhiệm. Vì thế, qua bài viết này, người viết khao khát khám phá sự huyền nhiệm của tước vị “cha” dành cho linh mục Công giáo dưới lăng kính thần học.
Khi các linh mục thừa sai đến Việt Nam thì giáo dân Việt Nam có thói quen gọi các ngài là “cố”. Còn các linh mục bản xứ thì người giáo dân quen gọi các ngài là “cụ”. Người giáo dân gọi các linh mục là “cụ” vì nghĩ rằng, các ngài đã học tập lâu năm, như đã đỗ một bằng cấp cao, do đó mới có tiếng là đỗ “cụ”. Giáo dân gọi các linh mục thừa sai hải ngoại là “cố” vì cho rằng, các ngài như là “cha” của các linh mục bản xứ.
Ở phương Tây, danh xưng “cha” dành cho linh mục Công giáo được Đức Hồng Y Henry Edward Manning (1808-1892) giới thiệu vào thế giới Công giáo ở Anh Quốc. Sau đó, nó trở thành tập tục của các nước nói tiếng Anh. Ở châu Âu, người ta gọi linh mục dòng với tước vị “cha đáng kính” (Reverend Father). Trong khi đó để thể hiện sự kính trọng đối các linh mục giáo phận, người ta gọi các ngài với tước vị: Don (tiếng Ý) – “Ngài”, Monsieur le Curé (tiếng Pháp) – “Ngài quản xứ”, Herr (tiếng Đức) – “Ngài”.
Giáo Hội nhìn nhận linh mục Công giáo là một người “cha” thiêng liêng. Người linh mục độc thân khiết tịnh tham dự cách riêng biệt vào tình phụ tử của Thiên Chúa. Tông huấn Pastores Dabo Vobis khẳng định rằng: “Bậc sống độc thân bởi đó cần phải được đón nhận với một quyết định tự do và ngập tràn yêu thương, cần phải được cải tiến liên lỉ, như là một hồng ân vô giá của Thiên Chúa, như là một “trợ lực cho đức ái mục tử” (Presbyterorum Ordinis, 16), như là một sự tham dự riêng biệt vào tình phụ tử của Thiên Chúa và vào sự sản sinh của Giáo Hội, như là một chứng từ cho Vương Quốc cánh chung được ban cho thế giới” (Pastores Dabo Vobis, số 29). Qua việc không ngừng thực hành đức ái mục tử, người linh mục Công giáo độc thân tham dự riêng biệt vào tình phụ tử của Thiên Chúa và vào sự sản sinh của Giáo Hội. Điều này nghĩa là gì?
Để có thể thấu hiểu được tình phụ tử của người linh mục Công giáo, chúng ta phải tránh những hiểm lầm chung. Trước hết, việc truyền chức cho những người nam sống độc thân khiết tịnh và việc đề cao tình phụ tử thiêng liêng nơi người linh mục không phải là kết quả của sự phân biệt đối xử bất công đối với phụ nữ. Giáo Hội luôn chân quý tình mẫu tử thiêng liêng nơi người phụ nữ, đặc biệt nơi các nữ tu, nhưng Giáo Hội “không truyền chức cho các người nữ” (Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1577).
Thứ đến, các phạm trù tâm lý và xã hội không thể giải thích cho tình phụ tử của linh mục. Tình phụ tử của linh mục không theo quy luật tự nhiên giống như tình phụ tử trong gia đình. Những linh mục Công giáo tự bản chất không bao giờ có thể thay thế vai trò của những người cha trong các gia đình. Sau cùng, tình phụ tử thiêng liêng của người linh mục Công giáo không đến từ mối tương quan tính dục. Các linh mục Công giáo đón nhận lời khuyên của Đức Ki-tô sống một đời sống độc thân khiết tịnh vì Nước Trời (xem Presbyterorum Ordinis, 16).
Tình phụ tử thiêng liêng không xuất phát cách tự nhiên từ nơi người linh mục và cũng không đương nhiên được ban tặng như một đặc quyền thông qua Bí tích Truyền Chức Thánh, nhưng là một hồng ân vô giá của Thiên Chúa. Như thế, chúng ta chỉ có thể hiểu được tình phụ tử đích thực của linh mục khi chúng ta đặt nó vào trong mối tương quan với Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã viết: “Căn tính linh mục, cũng như bất cứ căn tính nào của người Ki-tô hữu, bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là Mầu nhiệm được mạc khải, được chuyển đạt cho loài người nơi Chúa Ki-tô, đồng thời trong Ngài và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, tạo thành Giáo Hội với tư cách là “hạt mầm và khởi đầu” của Nước Trời” (Pastores Dabo Vobis, số 12).
Trong Tân Ước, nhiều lần Chúa Giê-su gọi Thiên Chúa là Cha. Người đồng đời dạy các môn đệ gọi Thiên Chúa là Cha (xem Mt 6,9-13). Như thế, chúng ta không thể phủ nhận việc các Ki-tô hữu gọi Thiên Chúa là Cha. Khi bàn về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thánh Tô-ma A-qui-nô nhấn mạnh rằng, Chúa Cha là nguyên lý không thể được sinh sản (xem Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, q. 33, a.1). Nghĩa là Chúa Cha không được sinh ra bởi bất cứ hữu thể nào vì chính Người là nguyên lý của các hữu thể khác. Như thế, tất cả tình phụ tử đều xuất phát từ tình phụ tử của Thiên Chúa. Đặc biệt, tình phụ tử của linh mục tham dự cách loại biệt vào tình phụ tử của Thiên Chúa. Và như thế, tình phụ tử của linh mục đóng vai trò như nguyên lý của việc thánh hoá nhân loại. Trong trật tự thiêng liêng, các linh mục tồn tại như khí cụ sống động được chỉ định bởi Thiên Chúa để qua đó những người khác, cụ thể, “các thánh” được sản sinh. Việc đón chào những thành viên mới này dẫn tới việc hình thành một cộng đoàn. Trong cộng đoàn này, người linh mục là trung tâm của sự sinh trưởng cộng đoàn hữu hình của Giáo Hội giống như người cha tự nhiên hiện diện trong gia đình (x. Romanus Cessario, The Grace to Be a Priest, tr. 33-34).
Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II khẳng định: “Chính trong lòng Giáo Hội xét như là mầu nhiệm hiệp thông giữa Thiên Chúa Ba Ngôi trong nỗi day dứt thi hành sứ vụ mà mọi căn tính Ki-tô hữu được mạc khải và đồng thời căn tính loại biệt của linh mục và của thừa tác vụ linh mục cũng được mạc khải. Quả vậy, linh mục, nhờ vào sự thánh hiến đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức thánh, được sai đi bởi Chúa Cha, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, và một cách đặc biệt được nên đồng hình dạng với Ngài, Đấng là Đầu và Mục Tử của dân Ngài, để sống và hoạt động, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ Giáo Hội và cứu độ thế giới” (Pastores Dabo Vobis, số 12).
Hơn thế nữa, linh mục tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa đóng vai trò như nguyên lý của sự sống mới của ân sủng. Người linh mục được thánh hiến để phục vụ Giáo Hội và ơn cứu độ thế giới. Chỉ có Ngôi Lời nhập thể mới dẫn đưa nhân loại tới sự sống mới của ơn cứu độ. Thần Khí của chính Đức Ki-tô đã đưa dẫn vào trong thừa tác vụ những con người được chọn giữa các anh em. Với cử chỉ đặt tay (x. Cv 6,6; 1 Tm 4,14; 5,22; 2 Tm 1,6) là cử chỉ chuyển ban ơn Thần Khí, những con người ấy được mời gọi và được trang bị để tiếp nối cùng một thừa tác vụ hoà giải, chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa và giảng dạy (x. Cv 20,28; 1 Pr 5,2; {Pastores Dabo Vobis, số 15}).
Tình phụ tử của Chúa được tỏ bày ở giữa trần gian qua tác vụ linh mục. Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nói: “Trong Giáo Hội và cho Giáo Hội, như những dấu chỉ bí tích, các linh mục đại diện cho Chúa Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử, các linh mục công bố Lời Chúa một cách chính danh, các linh mục lặp lại những cử chỉ tha thứ và ban ơn cứu độ, nhất là qua các bí tích Rửa Tội, Thống Hối và Thánh Thể, các linh mục đem sự chăm sóc đầy tình thương của Ngài, sự chăm sóc đến nỗi trao hiến trọn vẹn chính mình của Ngài, ra thi thố cho đoàn chiên mà các linh mục quy tụ lại làm một và dẫn đến Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần” (Pastores Dabo Vobis, số 15). Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II khẳng định rằng: “Chính trong toà giải tội, tình phụ tử thiêng liêng của người linh mục được thể hiện một cách đầy đủ” (John Paul II, Gift and Mystery, tr. 86). Như thế, trung thành với việc cử hành Thánh Lễ và thường xuyên hiện diện nơi toà giải tội cho thấy người linh mục ý thức một cách nghiêm túc về tình phụ tử của linh mục.
Qua việc chu toàn những bổn phận thánh thiêng, người linh mục công bố cho thế giới biết rằng, Thiên Chúa vẫn luôn hoạt động và vận hành sự chuyển động của con người và vũ trụ; Thiên Chúa vẫn tiếp tục đến với con người, đối thoại và mời gọi họ tham dự vào sự sống thần linh của Người. Nhiều người Công giáo quên chân lý này về người linh mục như dấu chỉ và khí cụ của sự tác động thần linh. Trái lại, thế gian và thế lực sự dữ hiểu được vai trò linh thánh của người linh mục. Chính vì lý do này, người linh mục cần ý thức rằng, nếu thế lực đen tối muốn xoá bỏ dấu vết sự hiện diện đầy ân sủng của Thiên Chúa, họ tấn công và loại bỏ linh mục trước tiên. Linh mục là người đầu tiên phải chịu sự bách hại. Lịch sử hơn hai mươi thế kỷ của Giáo Hội đã chứng minh điều này. Ngày nay linh mục không bị tấn công bởi bạo lực nhưng có nguy cơ bị tha hoá và thao túng bởi trào lưu tục hoá và hưởng thụ. Nếu như máu các anh hùng tử đạo làm nảy sinh các Ki-tô hữu, thì trái lại, những tấm gương mù gương xấu của các linh mục tục hoá có thể bóp nghẹt sự sinh trưởng của hạt giống đức tin nơi người tín hữu. Đây là sự thất bại trong tình phụ tử của linh mục: Không có khả năng sản sinh sự sống mới trong ân sủng.
Tình phụ tử của người linh mục được hiện thực hoá qua tác vụ giảng dạy và chăm sóc đàn chiên. Nhân loại làm sao có thể trở về với đạo thật nếu không có người chỉ cho họ chính lộ? Giữa một thế giới bị khấy động bởi các tà đạo, linh mục Công giáo chỉ cho nhân loại biết đạo thật, biết tôn giáo đích thật mang lại ơn cứu độ cho con người. Thế nên, bổn phận của người linh mục là chỉ cho người khác biết về sự thật toàn diện về ơn công chính hoá Ki-tô giáo, về sự thật toàn diện về thực tại làm cho con người hạnh phúc.
Linh mục chăm sóc đàn chiên, không phải là dẫn đàn chiên tới sự thoả mãn những nhu cầu vật chất. Người linh mục dẫn đàn chiên tới nhưng nguồn nước hằng sống của sự thật luân lý, đó là, tới “nguồn nước an toàn” (Tv 23,2). Nếu như luật tự nhiên có là đủ để định hướng toàn bộ hành vi của con người tới mức độ hoàn thiện thì không cần đến sự trợ giúp của ân sủng thiêng liêng. Tuy nhiên, khi con người phạm tội, họ mất khả năng hành động theo những thúc đẩy của luật tự nhiên. Linh mục Công giáo thực thi sứ vụ mục tử như một người “cha” khi ngài giảng dạy sự thật về điều thiện hảo của con người.
Tóm lại, linh mục đóng vai trò là một nguyên lý được sản sinh để sản sinh những sự sống mới của ân sủng thông qua việc thực thi những tác vụ thánh mà không một tạo vật nào có thể thay thế được. Sự thật này được hoạ sĩ người Tây Ban Nha Alonzo Cano phác hoạ trong bức tranh tuyệt tác của mình về việc thánh Gio-an Tông đồ trao Mình Thánh cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Thánh Gioan Maria Vianney nói rằng: “Nếu bạn đi xưng tội với Đức Mẹ hay các thiên thần, các ngài có giải tội cho bạn được không? Các ngài có ban Mình và Máu Chúa cho bạn được không? Chắc chắn là không. Đức Mẹ không thể làm cho Con Mẹ ngự xuống trong Bánh thánh được. Hai trăm thiên thần hiện diện cùng lúc cũng không thể giải tội cho bạn được. Chỉ có linh mục, dù đơn sơ đến mấy, mới có thể làm được như thế. Chỉ có linh mục mới có quyền nói với bạn: hãy về bình an, ta tha tội cho con” (Thánh Gioan Maria Vianney, Giáo lý về Chức linh mục).
Ôi! Linh mục thật cao cả biết bao! Với hồng ân vô giá của tình phụ tử, linh mục hiện thân nguyên lý của sự sống thiêng liêng, thế nên, không bao giờ là sai lầm khi người Công giáo gọi linh mục là “cha”.
Lm. An-tôn Trần Văn Phú
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org
TIN LIÊN QUAN: