Hướng dẫn mục vụ thánh nhạc 3

E. Tác viên thánh nhạc

Ca đoàn

29. Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh rằng phải luôn cổ vũ các ca đoàn, đồng thời bảo đảm sao cho “tất cả cộng đoàn tín hữu đều có thể tích cực tham dự với những phần dành riêng cho họ…” Ca đoàn không được phép giảm thiểu việc tham gia ca hát của cộng đoàn tín hữu. Thông thường, cộng đoàn hát những giai điệu chỉ có một bè vốn dĩ thích hợp với việc hát cộng đồng không cần phải tập dượt. Hát cộng đồng là ưu tiên trong phụng vụ. Trái lại, ca đoàn bao gồm những người được chọn ra từ cộng đoàn, vừa có khả năng âm nhạc cần thiết vừa biết hy sinh tập dượt theo thời khóa biểu cố định và sẵn sàng có mặt trong những cử hành phụng vụ. Vì vậy, họ có thể làm cho việc cử hành phụng vụ thêm phong phú bằng cách đóng góp những yếu tố âm nhạc mà khả năng của cộng đoàn chưa vươn tới được.

30. Ca đoàn phục vụ bằng nhiều cách khác nhau. Việc phục vụ quan trọng của ca đoàn trong Thánh lễ là chia hai bè hát đối đáp với nhau hoặc với cộng đoàn. Nhiều phần trong Thánh lễ có tính đối đáp, như Kinh Thương xót và Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa. Rõ ràng Hội Thánh muốn những phần này được hát theo cung cách đối đáp. Những phần khác của Thánh lễ cũng có thể được hát bằng cách ca đoàn tự đối đáp hoặc ca đoàn đối đáp với cộng đoàn, nhất là Kinh Vinh danh, Kinh Tin kính, và ba bài ca: Ca nhập lễ, Ca tiến lễ và Ca hiệp lễ. Cách hát này thường như sau: cộng đoàn hát điệp khúc, ca đoàn hát câu riêng (phiên khúc). Ca đoàn cũng có thể hát thêm bè hòa âm để làm phong phú tiếng hát của cộng đoàn.

31. Có khi ca đoàn hát riêng một mình. Trong kho tàng thánh nhạc, ca đoàn có thể chọn ra những tác phẩm do các nhạc sĩ thuộc nhiều thời kỳ khác nhau sáng tác theo nhiều phong cách âm nhạc khác nhau. Cũng có thể chọn những bài diễn tả đức tin của nhiều nền văn hóa khác nhau vốn là nét đa dạng phong phú của Hội Thánh. Những lúc thích hợp cho ca đoàn hát riêng là: bài ca trước Ca nhập lễ, Ca hiệp lễ. Phần hát riêng của ca đoàn phải luôn hợp với phụng vụ; hoặc hát bản văn phụng vụ của đúng ngày lễ, hoặc hát bài có chủ đề sát với phụng vụ của ngày hôm ấy.

32. Khi không hát riêng, ca đoàn cùng hát với cộng đoàn. Trong trường hợp này vai trò của ca đoàn không phải là hướng dẫn cộng đoàn hát, nhưng là cùng hát với cộng đoàn đang tự hát hoặc đang hát nương theo tiếng đàn.

33. Như mọi người khác đang góp phần việc của mình vào phụng vụ, các thành viên ca đoàn hãy phục vụ với đức tin sáng ngời, và hãy tham dự trọn vẹn cử hành phụng vụ, nhìn nhận mình là đội ngũ giúp việc trong phụng vụ và là thành viên của cộng đoàn được Chúa Kitô quy tụ.

34. Các thành viên ca đoàn hoặc ban hát có thể mặc đồng phục riêng, nhưng đồng phục phải luôn sạch sẽ, nghiêm chỉnh và nhã nhặn đúng mực. Có thể dùng áo Al-ba. Áo súp-li (áo xếp nếp) mặc bên ngoài áo su-tan (áo dòng) là của giáo sĩ, không nên dùng làm đồng phục ca đoàn. Ca trưởng thánh nhạc

35. Ở Việt Nam, ca trưởng có một vai trò rất đặc biệt không chỉ với ca đoàn mà cả cộng đoàn phụng vụ. Ca trưởng là người điều khiển việc thể hiện âm nhạc trong phụng vụ nên có trách nhiệm lớn hơn, từ phần huấn luyện chuyên môn cho ca viên, đến phần chọn bài cho phù hợp với tiêu chuẩn của thánh nhạc, dọn bài để tập hát cho ca đoàn và cộng đoàn, cuối cùng là điều khiển cộng đoàn hoặc ca đoàn trong cử hành phụng vụ (ví dụ: Thánh lễ). Ngoài ra còn phải phối hợp chặt chẽ với các người lo các phần việc khác, như QCTQ số 111 đòi hỏi: “Tất cả những người có nhiệm vụ, hoặc về nghi thức, hoặc về mục vụ và âm nhạc, phải đồng tâm nhất trí với nhau để chuẩn bị cách thiết thực cho cuộc cử hành phụng vụ, dưới sự điều 22 khiển của vị quản thủ thánh đường. Cũng phải nghe ý kiến các tín hữu trong những gì trực tiếp liên quan đến họ.”

36. Để được gọi là CA TRƯỞNG THÁNH NHẠC, ca trưởng cần học biết về phụng vụ; hiểu biết cặn kẽ và áp dụng cách sáng tạo những hướng dẫn (Hiến chế về phụng vụ thánh, các Thông điệp, các Huấn thị, v.v…) của Giáo Hội về âm nhạc phụng vụ, thông thạo khả năng chuyên môn như nhạc lý, ký xướng âm, hòa âm, điều khiển hợp xướng, đệm đàn cơ bản (organ hoặc piano).

Người xướng thánh vịnh

37. Người xướng thánh vịnh là người đọc hoặc hát câu xướng Đáp ca sau Bài đọc I và giúp cộng đoàn hát hoặc đọc câu đáp. Khi cần thiết, người xướng thánh vịnh cũng có thể xướng Tung hô Tin Mừng cho cộng đoàn hát theo hoặc đọc hay hát câu Tung hô trước Tin Mừng. Mặc dầu phận vụ đọc hay hát câu Tung hô này phân biệt với vai trò của người hát thánh vịnh, nhưng đôi khi cả hai nhiệm vụ này đều được ủy thác cho cùng một người.

38. Những ai được giao cho nhiệm vụ xướng (hoặc hát) thánh vịnh cần phải “biết ca hát, có khả năng phát âm và đọc cho đúng.” Là người công bố Lời Chúa, người xướng thánh vịnh cần có khả năng xướng (hát hoặc đọc) thánh vịnh một cách rõ ràng, tự tin, và truyền cảm đối với bản văn, bản nhạc và những người đang lắng nghe.

39. Người xướng thánh vịnh hát những câu xướng của Thánh vịnh đáp ca tại giảng đài. Người xướng thánh vịnh cũng nên mặc áo Al-ba hoặc áo đồng phục ca đoàn, nhưng phải luôn sạch sẽ, chỉnh tề và bằng thứ vải nhã nhặn.

Ca xướng viên

Ca xướng viên vừa là người hát vừa là người hướng dẫn cộng đoàn hát. Nhất là khi không có ca đoàn, ca xướng viên có thể hát đối đáp với cộng đoàn. Thí dụ, ca xướng viên có thể bắt hát Kinh Xin Chúa Thương Xót, Lời mời gọi theo mẫu thứ ba của nghi thức thống hối, Kinh Vinh Danh và Alleluia, giúp cộng đoàn hát những câu tung hô ngắn khi kết thúc các bài đọc, hát câu Tung hô trước Tin Mừng, hát Ý nguyện trong Lời nguyện chung, hát Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa. Ca xướng viên cũng có thể hát những câu xướng trong Thánh vịnh đáp ca, Ca nhập lễ, khi Chuẩn bị lễ vật, và khi Rước lễ.

41. Là người hướng dẫn cộng đoàn hát, ca xướng viên nên tham gia ca hát với toàn thể cộng đoàn. Để điều khiển việc ca hát của cộng đoàn phụng vụ, ca xướng viên không được để giọng hát của mình lấn át cộng đoàn. Lúc chuyển nhạc hay chuyển đoạn bài hát, ca xướng viên có thể hát lớn hơn để khơi dậy và dẫn dắt cộng đoàn ca hát khi tiếng hát của họ yếu ớt. Tuy nhiên, khi cộng đoàn đã cất cao tiếng hát, thì ca xướng viên phải biết cách giảm bớt âm lượng giọng hát của mình cho phù hợp. Nhiều lúc, có thể sử dụng một cử chỉ nhã nhặn mời gọi cộng đoàn tham gia ca hát và ra hiệu khởi tấu thật rõ ràng cho cộng đoàn bắt đầu, nhưng chỉ sử dụng cử chỉ cách dè dặt và khi thật cần thiết.

42. Khi hướng dẫn cộng đoàn, ca xướng viên nên đứng ở vị trí để mọi người nhìn thấy, nhưng không làm cho họ mất tập trung vào các hành vi phụng vụ đang diễn ra. Tuy nhiên, khi cộng đoàn đang hát những câu đối đáp hay những câu tung hô hoặc những bài ca quá quen thuộc rồi mà trong đó không có những câu hát dành riêng cho ca xướng viên, thì ca xướng viên nên lánh mặt đi.

43. Ca xướng viên thi hành tác vụ của mình tại một vị trí thuận tiện nhưng không phải ở tại giảng đài. Ca xướng viên cũng nên mặc áo Al-ba hoặc áo đồng phục ca đoàn, nhưng phải luôn sạch sẽ, chỉnh tề và bằng thứ vải nhã nhặn.

Nhạc công

44. Nhạc công đại phong cầm, nhạc công các nhạc cụ khác và nhạc công của ban nhạc có nhiệm vụ trước tiên là dẫn và nâng đỡ tiếng hát của cộng đoàn, ca đoàn và người xướng thánh vịnh. Vì thế, không được để tiếng nhạc lấn át tiếng hát, không đệm đàn khi chủ tế đang đọc hay hát.

45. Do có nhiều âm sắc khác nhau và có nhiều khả năng biểu đạt, đại phong cầm và ban nhạc làm cho tiếng hát của cộng đoàn thêm phần phong phú và hoa mỹ hơn, nhất là khi có sự góp mặt của kỹ thuật hòa âm.

46. Nếu có được các nhạc công tài giỏi và được đào tạo đầy đủ, nên khuyến khích họ tiếp tục truyền thống ứng tấu trong phụng vụ. Có những giây phút cần đến tiếng nhạc ứng tấu, ví dụ khi cộng đoàn đã hát xong mà nghi tiết phụng vụ chưa hoàn tất. Nghệ thuật ứng tấu đòi hỏi nhạc công phải có khả năng đặc biệt và được huấn luyện ở trường lớp. Tiếng nhạc ứng tấu không phải chỉ nhằm mục đích lấp đầy khoảng trống chờ đợi. Nếu không thể ứng tấu cho xứng hợp, nhạc công nên diễn tấu những bản đàn in sẵn, từ dễ đến khó, trong các tập nhạc có giá trị.

47. Có những thời điểm đại phong cầm hoặc các nhạc cụ khác được phép diễn tấu riêng, như dạo nhạc mở đầu trước khi Nhập lễ, đệm nhạc cho toàn bộ phần Chuẩn bị lễ vật, tấu nhạc khi kết lễ thay thế bài hát Kết lễ, hoặc diễn nhạc kết sau khi bài hát đã được hát xong, trong những mùa phụng vụ và những ngày lễ cho phép dạo đàn.

Người phụ trách chung về âm nhạc

48. Ngày nay mỗi giáo phận, giáo xứ nên có người phụ trách chung về thánh nhạc. Vị này sẽ cộng tác với giám mục hoặc cha xứ để kiểm tra chương trình hát, phối hợp và đôn đốc các anh chị em thực hiện chương trình đã đề ra về thánh nhạc trong giáo phận, giáo xứ. Vị phụ trách chung về thánh nhạc thúc đẩy cộng đoàn phụng vụ tham gia tích cực và linh động trong việc ca hát; đồng hành với các anh chị em có nhiệm vụ chuẩn bị những bài thánh ca sẽ được hát trong các cử hành phụng vụ; giúp cộng đoàn luôn đi đúng với truyền thống đức tin của Hội Thánh, diễn tả được truyền thống đức tin ấy một cách hiệu quả với sự nhạy cảm mục vụ. 49. Vì mỗi tác vụ đều bắt nguồn từ các bí tích khai tâm, là những bí tích làm cho Dân Thiên Chúa trở nên “cộng đoàn các môn đệ được thiết lập do sứ vụ của Đức Kitô và vì sứ vụ ấy,” nên người phụ trách chung về thánh nhạc có vai trò “tìm ra chỗ đứng của mình trong sự hiệp thông của Hội Thánh và phục vụ sứ mệnh của Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần.”

50. Những người đặc trách thánh nhạc giáo phận, giáo xứ cũng như các tác viên giáo dân khác trong Hội Thánh đều thi hành vai trò của mình trong mối tương quan với các vị giáo sĩ và cộng đoàn tín hữu. Người đặc trách thánh nhạc giáo phận, giáo xứ là những cộng tác viên của các giám mục, linh mục. Các ngài thi hành tác vụ mục vụ của mình do bí tích Truyền chức thánh, là bí tích làm cho các ngài nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Đầu của Nhiệm Thể, và thánh hiến các ngài trong một vai trò đặc biệt và cần thiết cho sự hiệp thông của Hội Thánh.47 Các tác viên giáo dân trong Hội Thánh đều là những thành phần tín hữu giáo dân “chia sẻ vào chức tư tế chung của mọi người đã chịu phép Rửa” và “được kêu gọi nên môn đệ Chúa.”

F. Lãnh đạo và đào tạo

51. Trong cộng đoàn tín hữu, có những người được Chúa ban cho những khả năng đặc biệt về âm nhạc, họ cần được Hội Thánh quan tâm để giúp họ tích cực phát triển tài năng phục vụ thánh nhạc.

52. Người hoạt động thánh nhạc trước hết là các môn đệ của Chúa, sau đó mới là người thi hành sứ vụ âm nhạc. Được liên kết với Đức Kitô nhờ các bí tích khai tâm, những người hoạt động thánh nhạc thuộc về cộng đoàn những tín hữu đã được rửa tội; vì thế tiên vàn họ là những người thờ phượng. Cũng như các thành viên khác đã được rửa tội trong cộng đoàn, những người hoạt động thánh nhạc cần phải lắng nghe Tin Mừng, cảm nghiệm sự hoán cải, tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô, và dâng lời ngợi khen Thiên Chúa. Vì vậy, những người hoạt động thánh nhạc phục vụ Hội Thánh cầu nguyện không hẳn là những người làm thuê hay những tình nguyện viên. Họ là những người thi hành sứ vụ chia sẻ đức tin, phục vụ cộng đoàn và diễn tả tâm tình mến Chúa yêu người bằng âm nhạc.

53. Những người phụ trách âm nhạc – chuyên nghiệp hay tình nguyện, toàn thời gian hay bán thời gian, ca trưởng hay những người thuộc ca đoàn, ca xướng viên hay những người đệm đàn và trình tấu các nhạc cụ – đều thi hành tác vụ đích thực trong phụng vụ. 49 Người nhạc sĩ làm mục vụ cần phải được đào tạo thích hợp dựa trên ơn gọi của họ qua bí tích Rửa tội để trở thành người môn đệ Chúa. Chương trình huấn luyện sẽ giúp họ yêu mến và hiểu biết Thánh Kinh, giáo huấn của Hội Thánh, phụng vụ và âm nhạc. Đồng thời, họ cũng được trang bị những kỹ năng chuyên môn về âm nhạc, phụng vụ, và mục vụ để tận tình phục vụ Hội Thánh khi cử hành phụng vụ.

54. Việc chuẩn bị cho sứ vụ phụ trách thánh nhạc bao gồm đào luyện về nhân bản, tinh thần, tri thức và mục vụ cách xứng hợp. Các giám mục, các cha xứ nên tạo điều kiện thuận lợi cho những ai phụ trách thánh nhạc tham dự các khóa đào tạo dành riêng cho tác vụ của họ. Những khóa này vẫn thường hay được mở ở các giáo phận, ở các trung tâm mục vụ giáo phận do các ban thánh nhạc hay các trường nhạc đảm nhận. Giáo xứ và giáo phận cần phải lo liệu trợ giúp họ về tài chính cần thiết để đảm bảo khi được học đến nơi đến chốn họ sẽ là những người lãnh đạo thành thạo trong lĩnh vực thánh nhạc.

55. Mọi người cần phải nhận biết công việc của những người phụ trách mục vụ thánh nhạc là công việc quý giá và không thể thiếu được trong toàn bộ các việc mục vụ của giáo xứ và giáo phận. Vì thế, Đức giám mục, cha xứ, hội đồng mục vụ giáo xứ nên lưu tâm chăm sóc và bồi dưỡng họ đúng mực, bằng những cách thức đãi ngộ khác nhau để nói lên rằng công việc họ làm thật cao quý.

56. Các tác viên thánh nhạc cần được hưởng nhận những nguồn tài chính xứng hợp để thi hành chức năng phục vụ thánh nhạc của mình một cách chuyên nghiệp.

G. Tiếng La-tinh trong phụng vụ

57. Hội Thánh (từ sau Công đồng Vaticanô II) cho phép sử dụng tiếng bản xứ trong các cử hành phụng vụ, nhờ vậy giáo dân tham dự “am hiểu đầy đủ hơn mầu nhiệm được cử hành.”50 Tuy nhiên, phải quan tâm cổ vũ vai trò của tiếng La-tinh trong phụng vụ, nhất là trong việc ca hát. Các linh mục chính xứ phải dự liệu sao “để các Kitô hữu cũng có thể đọc chung hoặc cùng hát chung ngay cả bằng tiếng La-tinh, các phần thường lễ dành cho họ.” Các tín hữu cần phải hát được những phần trong Nghi thức Thánh lễ dành cho họ, tối thiểu là phải hát được những giai điệu đơn sơ.

58. Trong các cuộc quy tụ mang tính quốc tế và đa văn hóa gồm nhiều nhóm người khác nhau về ngôn ngữ, thật thích hợp để cử hành phụng vụ bằng tiếng La-tinh, ngoại trừ các bài đọc, bài giảng và lời nguyện chung. Thêm vào đó, nên tuyển chọn những bài bình ca để hát trong những cuộc quy tụ như thế bất cứ khi nào có thể.

59. Để dễ dàng hát những bản văn bằng tiếng La-tinh, các ca viên hoặc người hát nên được huấn luyện phát âm đúng và hiểu biết ý nghĩa bản văn. Nên cố gắng ở mức tối đa và thích hợp để khuyến khích người hát và người phụ trách ca đoàn học hỏi thêm về tiếng La-tinh.

60. Bất cứ khi nào ngôn ngữ La-tinh gây ra những trở ngại cho những người hát, ngay cả khi họ đã được huấn luyện – thí dụ, trong việc phát âm, trong việc hiểu biết bản văn, trong việc thể hiện cách tự tin một bài hát – thì khôn ngoan hơn cả hãy sử dụng ngôn ngữ bản địa trong phụng vụ.

61. Các chủng sinh phải “được lãnh nhận sự chuẩn bị cần thiết để hiểu và để cử hành Thánh lễ bằng La ngữ, và cũng biết sử dụng các bản văn La ngữ và các bài bình ca.”

62. Trong khi cổ vũ việc sử dụng tiếng La-tinh trong phụng vụ, các cha xứ phải luôn luôn “dùng hình thức tham dự nào thích hợp hơn cả với khả năng của mỗi cộng đoàn.”

Còn tiếp…

Trích: Hướng dẫn mục vụ Thánh nhạc – Ủy ban Thánh nhạc HĐGMVN