Hội Thánh nào? Kiểu Linh Mục nào? Loại hình đào tạo nào?

HỘI THÁNH NÀO? KIỂU LINH MỤC NÀO? LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO NÀO?
Những suy tư về công cuộc đào tạo linh mục trong một kỷ nguyên có những thay đổi lớn lao

Đức Hồng y Lazzaro You Heung Sik
Tổng trưởng Bộ Giáo Sỹ

Một cuốn sách, một điều luật, một vị Thầy

Khi suy nghĩ về công cuộc đào tạo linh mục, điều ngay lập tức đến với tâm trí tôi là hành trình của cá nhân tôi hướng tới thừa tác vụ linh mục, trong đó mọi thứ trở về với những điều căn bản này: một cuốn sách – một điều luật – một vị Thầy.

Một cuốn sách duy nhất: Tin Mừng, để thực hành cách trung tín hoặc từng chữ trong cuộc sống hằng ngày.

Một điều luật duy nhất: Lệnh truyền truyền yêu thương nhau mà Chúa Giê-su ban truyền trước hết, cho các Tông Đồ.

Một vị Thầy: Đấng hằng hiện diện ở nơi mà chúng ta cùng sống với nhau như những con cái cùng một Cha và như anh chị em cùng một nhà.

Ba nẻo đường này đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời tôi mãi mãi. Chúng soi sáng và hướng dẫn tôi đến tận ngày hôm nay. Thực tế, công cuộc đào tạo của chúng ta không bao giờ là một tiến trình có điểm kết. Trái lại, ngày ngày chúng ta cần phải hoán cải để cho lối sống của chúng ta, lời ăn tiếng nói và việc làm của chúng ta ngày càng đâm rễ sâu hơn vào Tin Mừng. Luôn luôn có một cái gì đó mới mẻ mỗi ngày mà chúng ta học được từ Thầy, Đấng muốn là một phần của cuộc đời ta và hiện diện ở giữa chúng ta.

Ba con đường hay ba chỉ dẫn này, mà thực tế rất cần thiết, đã có vai trò nền tảng trong Hội Thánh từ thuở sơ khai rồi. Các thánh tử đạo đã có được sức mạnh phi thường để làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả chấp nhận cái chết là bởi vì các ngài đã để cho Lời Chúa hướng dẫn một cách triệt để – đây cũng là trường hợp đã diễn ra trên quê hương tôi. Yêu thương nhau là luật căn bản của cộng đoàn: “Hãy xem họ yêu thương nhau dường nào và sẵn sàng chết cho nhau làm sao.” Sự hiện diện sống động của Chúa Giê-su Phục Sinh hằng nâng đỡ và hướng dẫn Hội Thánh ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Ngày nay cũng không thể khác! Trong mọi thời đại, chúng ta cần phải trở về với những điều khởi đầu này và hãy bắt đầu khởi hành một hành trình mới từ những gốc rễ này, từ cái mà chúng ta gọi là bộ gen của chúng ta, một thứ không thể thay thế bằng bất cứ thứ nào khác.

Những vấn nạn về đời sống linh mục và công cuộc đào tạo linh mục

Thần Khí của Chúa vừa dẫn dắt Dân Thiên Chúa qua suốt dòng lịch sử cùng hướng dẫn họ đến với sự thật toàn vẹn ngày một hơn (Ga 16,13), vừa dẫn họ tới hướng tới sự trưởng thành hơn và làm cho họ có khả năng đáp lại những dấu chỉ của mọi thời đại. Chính vì thế, chúng ta cần phải tự hỏi loại hình đào tạo linh mục nào có thể hoàn toàn phù hợp cho thời nay, một thời đại mà Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã mô tả là một “thời đại đổi thay, hay một kỷ nguyên có những thay đổi lớn lao.”

Đây là một vấn đề mà tôi không ngừng tự vấn kể từ ngày tôi được Đức Thánh Cha đặt làm Tổng trưởng Bộ Giáo sỹ. Và tôi không chỉ nêu vấn đề này ra cho riêng tôi trong văn phòng của tôi, nhưng cho cả các cộng sự của tôi nữa, để chúng tôi có thể không ngừng lắng nghe Đức Phan-xi-cô, các giám mục và những người đến thăm chúng tôi ở Bộ. Chúng ta hãy cố gắng dựa trên thực tế để nắm được kiểu đời sống linh mục nào đang hiện hữu trong mọi miền trên thế giới.

Chúng ta chắc chắn bị thách đố bởi vấn đề nghiêm trọng là tình trạng lạm dụng, được báo cáo từ nhiều quốc gia. Thực sự đau đớn vì nỗi đau khổ nghiêm trọng mà nó gây ra cho các nạn nhân và sự hủy hoại nghiêm trọng mà nó gây ra cho uy tín của Hội Thánh. Chúng ta không được che đậy vấn đề này. Nhưng tôi quan sát thấy, trên tất cả, đó là tình trạng nhiều linh mục chán nản, làm việc quá sức, vật lộn với những tình huống khó khăn trong mục vụ. Họ luôn sống trong tình trạng cô đơn cùng cực và có nguy cơ trở thành người cô độc. Họ không cảm thấy mình có giá trị và được quan tâm, và điều này khiến họ suy sụp từ bên trong. Đương nhiên, vẫn có đó nhiều những gương sáng tích cực, nhưng vấn đề vẫn còn đó: Chúng ta có thể làm gì để giúp các linh mục trở thành những con người hạnh phúc và ngập tràn niềm vui?

Điều khẩn cấp là chúng ta phải luôn tự hỏi: loại hình đào tạo linh mục nào là cần thiết, không chỉ đào tạo khi ở trong chủng viện mà, theo một cách đặc biệt, cả đào tạo trường kỳ. Mọi linh mục phải cảm nhận được mình được chào đón và lắng nghe, đồng hành và nâng đỡ trong suốt hành trình cuộc đời mình. Chúng tôi đã xác định điều này như một chọn lựa ưu tiên cho những năm sắp tới.

Tuy nhiên, chúng ta không thể nói đến vấn đề này ngay, mà không nêu lên những vấn đề còn có tính nền tảng hơn: Trước hết, Hội Thánh nào? Và kiểu linh mục nào cho Hội Thánh này? Rồi đâu là loại hình đào tạo cho kiểu linh mục này?

Về bộ ba vấn đề này tôi muốn cống hiến cho các bạn một chút suy tư mà chắc chắn sẽ cần phải nghiên cứu sâu rộng hơn.

HỘI THÁNH NÀO?

Mầu nhiệm – Hiệp Thông – Sứ vụ

Cho phép tôi bắt đầu suy tư của tôi về Hội Thánh từ một đức giám mục vĩ đại trên quê hương tôi: Đức Hồng y Stefano Kim. Ngài là Tổng Giám mục Seoul trong ba mươi năm. Ngài là một người cha đích thực của Hội Thánh tại Hàn Quốc. Và với sự khôn ngoan cùng đời sống chứng tá của mình, ngài đã đóng góp nhiều cho sự trưởng thành của người Công Giáo trong đất nước tôi. Vào năm 1989, khi Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế được tổ chức tại Hàn Quốc, Đức Hồng y Kim đã giải thích cho tất các các tín hữu: “Chúng ta cần phải trở thành một tấm bánh lớn (bánh Thánh Thể) trong xã hội.” Lời diễn tả này đã tóm gọn toàn bộ Giáo Hội học về hiệp thông của Công đồng Vatican II, với ba chiều kích: mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.

Mầu nhiệm. “Một tấm bánh lớn”. Hội Thánh có nhiệm vụ làm cho Thiên Chúa hiện diện thực sự: làm cho Ngài được nhìn thấy. Vì thế, đời sống của Hội Thánh phải thấm đượm Thiên Chúa, đâm rễ sâu vào trong Ngài; phải luôn được nuôi dưỡng bởi các bí tích và lớn lên nhờ Lời Hằng Sống là: Tin Mừng. Đó là ơn gọi nên thánh phổ quát mà Công đồng Vatican II mời gọi chúng ta (x. LG chương 5) và Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhắc nhở chúng ta trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate – Vui Mừng và Hân Hoan: Một sự thánh thiện trong đời sống hằng ngày đòi hỏi không chỉ một đời sống cầu nguyện liên lỉ mà còn là một cuộc tái Phúc âm hóa liên tục toàn bộ lối sống của chúng ta, ngõ hầu người ta có thể thấy Chúa Giê-su trong chúng ta.”

Hiệp thông. “Chúng ta phải là một tấm bánh lớn”.  Chúng ta, trong các mối tương quan của chúng ta! Chúng ta được mời gọi trở thành một hình ảnh (icon) về Thiên Chúa Ba Ngôi, để cho thấy rằng với sự hiệp thông của mình, chúng ta sống ở dưới đất cũng như trên Trời! Đây là bản chất của Hội Thánh, như Công đồng Vatican II trình bày cho chúng ta trong Hiến chế Lumen Gentium: “Một dân được nên một với sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (số 4). Đâm rễ sâu vào trong Thiên Chúa và được thành hình bởi Lời Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi làm chứng cho phép lạ này hằng ngày: đó là nhiều và đa dạng lại có thể trở thành một thân thể và một linh hồn, và sự hiệp nhất này lại không phá hủy sự khác biệt nhưng làm cho chúng hòa hợp với nhau. Thánh Bonaventura diễn tả ơn gọi hiệp thông này như sau: “Ecclesia enim mutual se diligens est – Hội Thánh là cộng đoàn yêu thương nhau.”

Sứ vụ. “Chúng ta phải trở thành một tấm bánh lớn trong xã hội”, nơi con người sinh sống, nơi họ làm việc, nơi họ chịu đau khổ, phấn đấu và hy vọng. Chúng ta được mời gọi trở nên men của đời sống Ba Ngôi, len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống con người. Trong tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô diễn tả nhiệm vụ này như sau: “Ngày nay, khi các mạng và các phương tiện truyền thông của con người đã tạo nên những tiến bộ chưa từng thấy, chúng ta cảm nhận thấy một thách đố phải tìm kiếm và chia sẻ một ‘huyền nhiệm’ của việc chung sống, của việc hòa nhập và gặp gỡ, của việc đón nhận và hỗ trợ nhau, của việc bước vào dòng thác lũ này (trong khi hỗn loạn), để nó trở thành một trải nghiệm đích thực về tình huynh đệ, trở thành một dòng người liên đới với nhau đang tiến bước, trở thành một cuộc hành hương thánh thiêng” (số 87). Vấn đề không phải là thần thánh hóa đời sống thường nhật của con người, nhưng mà là thánh hóa nó – một nhiệm vụ trần thế rõ ràng liên quan đến tất cả những ai đã được rửa tội.

Chính vì vậy, Công đồng Vatican II đã trình bày Hội Thánh là: Một Dân thấm đượm đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, trong khi vẫn đắm mình giữa cuộc đời, với những niềm hoan lạc và những nỗi khốn cực của nhân loại; một Dân mà trong đó mọi thành viên đều được vui hưởng cùng một phẩm giá như nhau và tất cả đều là vai chính trong sứ vụ vĩ đại là trở nên – như “Lumen Gentium nói ở số 1 – “trong Đức Ki-tô như một bí tích hoặc như một dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông hết sức chặt chẽ và gần gũi với Thiên Chúa vừa của sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại.” Nói theo kiểu của Đức Hồng y Kim là: “một tấm bánh lớn trong xã hội.”

Trước tầm nhìn tiên tri này của Công đồng, quả là một con đường dài phải đi để Công đồng có thể tác động vào đời sống của các cộng đoàn Ki-tô hữu chúng ta. Không ảo tưởng, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, vào năm 2018, trong cuộc họp báo trên chuyến bay trở về từ Abu Dhabi, đã nhận xét: “Các nhà sử học nói rằng để một Công đồng bén rễ trong Hội Thánh thì phải mất 100 năm. Chúng ta mới đi được nửa chặng đường.”

Hội Thánh hiệp hành, đi ra

Chúng ta cần phải dứt khoát tiến về phía trước. Nhưng theo hướng nào? Trong Evangelii Gaudium – Niềm Vui Tin Mừng, Đức Phan-xi-cô mời gọi hướng đến một cuộc hoán cải về sứ vụ để thay đổi mọi thứ, “những thói quen, những lối hành xử, thời gian và lịch trình, ngôn ngữ và các cơ cấu để có thể tập trung một cách phù hợp cho công cuộc phúc âm hóa thế giới ngày nay hơn là tập trung vào nỗ lực tự bảo toàn” (số 27). Bộ đã cung cấp một chỉ dẫn đặc biệt về chủ đề này. Hơn nữa, trong Evangelii Gaudium Đức Phanxicô khẩn khoản yêu cầu: “Vậy chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giê-su Ki-tô.” “Một Hội Thánh bị bầm dập, bị thương tích và bị nhơ bẩn vì đi ra ngoài các nẻo đường, còn hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì giam mình và bám víu vào sự an toàn của chính mình” (số 49) thì thích hợp hơn.

Chúng ta phải hiểu rằng, như Đức Phan-xi-cô thường xuyên nhắc nhở chúng ta, đó là chúng ta đang trải qua “không chỉ một thời đại của những đổi thay lớn lao, mà là chúng ta đang trải qua một thay đổi lớn lao có tính thời đại.” Nói về điều đó cho Giáo triều Rôma vào ngày 21 tháng 12 năm 2019, Đức Phan-xi-cô đã giải thích: “Chúng ta thấy mình đang sống ở một thời điểm mà sự thay đổi không còn theo tuyến tính nữa” nhưng “buộc chúng ta phải dứt khoát thay đổi cách nhanh chóng lối sống, lối tương quan với người khác, lối giao tiếp và suy nghĩ, lối liên hệ với nhau giữa các thế hệ và làm sao để chúng ta hiểu và trải nghiệm được mối tương quan giữa đức tin và khoa học”. Và sự thay đổi này cũng đưa đến một nguy cơ: “Chúng ta thường hay nói đến thay đổi chỉ đơn giản là mặc vào những chiếc áo mới trong khi vẫn còn nguyên những gì chúng ta là trước đó.”

Chính vì thế, chúng ta phải mở rộng lòng mình ra với một sự thay đổi lớn lao mới, mở lòng mình ra với lối sống mới, lối tương quan mới, lối hiện diện mới của Hội Thánh. Vì lý do đó, lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô gửi đến toàn thể Dân Thiên Chúa, phát sinh một loại tiến trình phổ quát: tiến trình hiệp hành. Đây không phải là một ý kiến. Đức Phan-xi-cô nhắc nhở chúng ta: “Hội Thánh và Hiệp Hành có cùng một nghĩa,” đó là lời của thánh Gioan Kim Khẩu. Chính vì thế, cần phải bước đi cùng nhau: cởi mở với nhau và đón nhận nhau, lắng nghe nhau, cùng nhau lắng nghe tiếng nói của Thần Khí và phân định cái gì nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa ở đây và lúc này. Theo quan điểm của Thượng Hội đồng Giám mục tháng 10 năm 2023, đây không phải một dự án tạm thời nhưng là một con đường để học biết “lối sống và hoạt động cụ thể của Hội Thánh trong tư cách là Dân Thiên Chúa.” Tính hiệp hành – như Đức Phan-xi-cô đã diễn tả vào năm 2015 – là “con đường mà Thiên Chúa chờ đợi từ Hội Thánh của thiên niên kỷ thứ ba.”

Nói kiểu khác, nhưng cùng một dòng tư tưởng, chính thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã diễn tả, khi mà Đại Năm Thánh 2000 kết thúc, ngài viết trong tông thư Novo Millennio Ineunte – Khởi Đầu Thiên Niên Kỷ Mới: “Làm cho Hội Thánh trở thành nhà và trường học của sự hiệp thông: đó là một thách đố lớn mà chúng ta phải đối diện trong ngàn năm thứ ba, mà giờ đây đã bắt đầu, nếu chúng ta muốn trung tín với kế hoạch của Thiên Chúa và đáp lại khát vọng sâu xa nhất của thế giới.” (số 43) Theo thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, “Chính bản chất của Hội Thánh” được thể hiện ở đây (số 42). Nhưng để điều này xảy ra – ngài đã giải thích rõ – “Chúng ta cần phải thăng tiến một linh đạo hiệp thông, biến linh đạo đó thành nguyên lý hướng dẫn việc giáo dục ở bất cứ nơi nào các cá nhân và các Kitô hữu được đào tạo, ở bất cứ nơi nào các thừa tác viên phục vụ bàn thờ, những người được thánh hiến, các người thi hành công việc mục vụ được huấn luyện, ở bất cứ nơi nào các gia đình và các cộng đoàn được xây dựng.” (số 43)

Vậy, Hội Thánh nào? Một Hội Thánh hiệp hành, sống cùng nhau như là nhà và trường học của sự hiệp thông từ bên trong cộng đoàn, và trở thành men hiệp thông Ba Ngôi trong mọi lĩnh vực của đời sống con người trong thế giới. Đây là ơn gọi của tất cả những người đã được rửa tội. Họ là vai chính trong sứ vụ của Hội Thánh, nghĩa là trở thành người đi đầu trong sứ vụ của Hội Thánh.

KIỂU LINH MỤC NÀO?

Chúng ta hãy nêu lên một câu hỏi khác liên quan đến một Hội Thánh hiệp hành: Kiểu linh mục nào đây?

Điều quan trọng cần phải chỉ ra là linh mục, trong sự hiệp nhất với giám mục và toàn thể linh mục đoàn, phải đảm nhiệm một nhiệm vụ cụ thể được ủy thác trong tư cách là mục tử hoặc chính xác hơn: là sự hiện diện của Đức Ki-tô, vị Mục Tử. Tôi không tập trung nhiều vào điều này, nhưng chỉ giới hạn bằng cách gợi lại những lời của Tin Mừng Gio-an: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Và khi Ngài phán những lời này, Ngài đã thở hơi trên các tông đồ và nói, “Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23).

Nhưng làm thế nào để thực thi lệnh truyền này một cách đích thực, và làm thế nào để Ngài trở nên đáng tin bởi sự thuyết phục của đời sống chứng tá mà Ngài cần? Ở đây tôi muốn tập trung vào ba điểm:

[1] Lời mời gọi làm môn đệ, cùng với tất cả những người đã được rửa tội

[2] Lời mời gọi “rửa chân”: mục vụ là phục vụ

[3] Lời mời gọi sống và hành động chung, tính hiệp hành

Lời mời gọi làm môn đệ, cùng với tất cả những người đã được rửa tội

Ngày từ đầu sứ vụ trên ngai tòa thánh Phê-rô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng mục tử phải mang lấy “mùi chiên” và đôi khi đi trước, có lúc đi sau và có lúc đi giữa đoàn chiên. Chính vì thế, không có kiểu lãnh đạo tách linh mục khỏi Dân hay chỉ đặt linh mục bên trên và phía trước Dân!

Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị chuyên đề về Chức linh mục tại Vatican ngày 17 tháng 3 năm 2022, Đức Phan-xi-cô nói, “Chúng ta phải đừng bao giờ quên rằng mỗi ơn gọi riêng biệt, bao gồm cả ơn gọi Linh mục, là một sự hoàn thành bí tích Rửa tội.” Và trong một dịp khác, ngài cảnh báo để khỏi rơi vào chủ nghĩa giáo sĩ trị: “Luôn luôn có một cám dỗ rất lớn là sống bí tích truyền chức mà không sống bí tích rửa tội – nói cách khác, quên mất rằng ơn gọi chính yếu của chúng ta là nên thánh.” Thực ra, chúng ta phải là Ki-tô hữu trước khi là linh mục, phải là chứng nhân trước khi là thầy dạy, trước hết chúng ta phải làm cho mầu nhiệm Vượt qua trở thành lối sống của mình, rồi sau đó mới được mời gọi cử hành mầu nhiệm ấy.

Không phải ngẫu nhiên mà Ratio fundamentalis – Chỉ nam về đào tạo linh mục năm 2016 nhấn mạnh về khía cạnh làm môn đệ – Làm môn đệ phải là linh hồn của việc đào tạo, không chỉ đào tạo tại Chủng Viện mà còn là điểm đặc trưng của toàn bộ đời linh mục từ khởi sự cho tới hoàn thành.

Nhưng điều đó có nghĩa là gì? Tôi muốn minh họa cụ thể điều này. Chúng ta cần phải không ngừng tự hỏi: Tôi có nghèo như Chúa Giê-su, không dính bén đến của cải vật chất và không tìm kiếm hưởng thụ không? Tôi có thanh khiết như Ngài, trong sáng trong các mối tương quan không? Tôi có vâng theo kế hoạch của Cha Trên Trời không, hay tôi theo các kế hoạch và các tham vọng của riêng tôi?

Khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời tôi đến Rôma làm việc, ngài đã giúp tôi thực hiện một quyết định quan trọng liên quan đến điều đang nói. Bỏ lại quê hương, bỏ lại Tòa Giám mục mà tôi mới xây cùng nhiều sáng kiến mục vụ đang hoạt động tốt, bỏ lại, trên tất cả là biết bao mối tương quan và những bạn hữu tốt, là một phép thử hữu ích cho tôi. Dù tôi thích hay không, khi đó nhiều tiện nghi bao quanh tôi: ôtô với tài xế, thư ký, các nữ tu…, mọi người và mọi thứ sẵn có, sẵn sàng vâng lệnh tôi. Không hay quen dùng đến những tiện nghi này và giữ được sự đơn sơ theo Tin Mừng là một cuộc chiến đấu không ngừng.

Chúng ta đọc thấy trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Linh mục – cũng giống như mọi thành phần khác của Hội Thánh – cần phải ngày càng ý thức rằng chính mình cũng cần phải liên tục được Phúc Âm hóa” (số 26). Những lời này luôn giúp tôi xét mình rất cụ thể với Lời Chúa; không chỉ suy gẫm Lời Chúa nhưng tôi còn tự cam kết sống Lời Chúa, và mỗi tối tôi hằng xét mình xem tôi đã tuân giữ Lời Chúa như thế nào. Và những lời này của tông huấn cũng giúp tôi rất nhiều trong việc xét mình như vậy cùng với những người khác, những người có cùng nhiệt huyết sống Tin Mừng trong cuộc đời họ cách nghiêm túc. Biết bao lần họ là tấm gương cho tôi, một tấm gương và một sự khích lệ không ngừng!

Lời mời gọi “rửa chân”: mục vụ là phục vụ

Khi còn là sinh viên, cảnh Chúa Giês-u trong Phòng Tiệc Ly luôn gây ấn tượng cho tôi và thách đố tôi: Rửa Chân. Đó không phải chỉ là một tình tiết để tưởng nhớ vào Thứ Năm Tuần Thánh hoặc để in ấn như một tấm ảnh trên card kỷ niệm ngày lễ mở tay, nhưng là một liều thuốc giải độc hàng loạt các hình thái giáo sĩ trị đang lộng hành gây tổn hại lớn cho Hội Thánh. Trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 50 thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã liên tục lặp lại lời của Công đồng rằng trong Dân Thiên Chúa, “trong lòng Hội Thánh, không ai có thể được ‘nâng cao’ hơn người khác. Trái lại, trong Hội Thánh, mỗi người cần phải ‘hạ’ mình xuống, ngõ hầu phục vụ anh chị em mình dọc theo cuộc hành trình.” Và ngài giải thích: “Nhưng trong Hội Thánh này, như kim tự tháp lộn ngược, đỉnh được đặt ở bên dưới nền.” “Do đó, những người thi hành quyền bính được gọi là các ‘minister – thừa tác viên’, bởi vì, theo nguyên nghĩa của từ này, họ là những người bé nhất.” […] “Chúa Giê-su trong Bữa Tiệc Ly đã quỳ xuống rửa chân cho các Tông Đồ” (xem Ga 13,1-15) […] Đừng bao giờ quên điều này! Vì các môn đệ của Chúa Giê-su, hôm qua, hôm nay, và mãi mãi, chỉ có một quyền bính là quyền bính phục vụ, chỉ có một sức mạnh là sức mạnh của thập giá.”

“Như một kim tự tháp ngược”: Đó quả là một hình ảnh ấn tượng! Hình ảnh này không muốn đặt vấn đề về cơ cấu phẩm trật của Hội Thánh, nhưng tuy nhiên nó xác định tính mới mẻ triệt để của cơ cấu phẩm trật này, một cơ cấu mà tất cả – và mọi tác động – là để phục vụ.

Cảnh Chúa Giê-su rửa chân cho các Tông Đồ xem ra không phải là một ý tưởng tốt. Ngài cởi áo ngoài, thắt lưng, lấy tay rửa chân. Noi gương Ngài có nghĩa là đổ mồ hôi, xắn tay áo, di chuyển đôi chân. Điều này đòi hỏi phục cách cụ thể, đơn sơ.

Với cá nhân tôi, khi còn là giám đốc chủng viện và sau này là giám mục, tôi đã có kinh nghiệm là, trong những tình huống cụ thể, để kiến tạo gia đình của Thiên Chúa, việc tự mình vào bếp nấu một đĩa mỳ ngon cho cộng sự hay cho khách đến nhà là điều cực kỳ hữu hiệu. Ai cũng hạnh phúc vì điều đó: các cộng sự, các cá nhân dân sự, các cựu tù nhân. Trong nhiều dịp, với sáng kiến này, tôi cũng lên cả Truyền hình!

Phục vụ những người khác nhau, phục vụ dân chúng, cũng đồng nghĩa với việc khám phá và nhận ra giá trị những đặc sủng và tài năng trong Dân Thiên Chúa, cùng khước từ cám dỗ hành xử như một nhân vật chính giả hiệu. Công đồng cũng cổ võ chúng ta về điều này. Sắc lệnh Về Tác vụ và Đời sống các linh mục – Presbyterorum Ordinis nói, các linh mục “Phải dùng cảm thức đức tin mà phát hiện, vui mừng nhìn nhận và nhiệt tình phát huy những đặc sủng đa dạng của giáo dân” (số 9). Thật tốt biết bao khi nhận ra những tài năng chuyên môn, sức sáng tạo và năng lực của giáo dân mà khuyến khích họ dấn thân, kể cả trong chính trị!

Lời mời gọi sống và hành động chung, tính hiệp hành

Tôi thường xuyên, rất thường xuyên chú ý đến việc chúng ta hay nói về các linh mục ở số ít, trong khi Công đồng luôn nói đến các linh mục ở số nhiều. Là các linh mục chúng ta là một thân thể gồm các cá nhân cùng với Đức Giám mục – linh mục đoàn – cũng như chính giám mục là một phần của giám mục đoàn. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã nhắc lại rằng thừa tác viên được phong chức “tự căn rễ mang hình tức cộng đoàn” và chỉ có thể được hoàn thành như là “một công trình tập thể” (số 17).

Trong một xã hội đang bị phân mảnh ngày nay, thuộc về một gia đình quan trọng biết bao: để biết ta thuộc về ai! Và các linh mục thuộc về một gia đình là điều hết sức quan trọng! Vâng, các linh mục được kêu gọi vào hàng giáo phẩm vì Nước Thiên Chúa, không phải chỉ có một mình, nhưng cùng với các anh em, với các bạn hữu; các linh mục từ bỏ niềm vui và quyền có một gia đình tự nhiên để hình thành và phục vụ một gia đình rộng lớn hơn: gia đình của những con trai con gái Thiên Chúa, tất cả là anh chị em!

Tôi biết ơn vì khi còn là chủng sinh và là linh mục, tôi luôn có khả năng sống hiệp thông với người khác ngay cả trong việc chia sẻ không chỉ những kinh nghiệm thiêng liêng mà cả của cải của mình nữa. Nhìn chung, các linh mục đều quen chia sẻ chứ không hay tư túi: tiền! Và tôi cũng biết ơn điều này, đó là từ năm 2001 hầu hết các Giám mục Hàn Quốc một năm gặp nhau bốn lần, không phải gặp nhau để họp hội đồng giám mục, mà đơn giản là để sống hiệp thông với nhau, như là những anh em và bạn hữu.

Không nghi ngờ gì nữa, điều rất quan trọng là mọi linh mục hãy để cho mình được đồng hành, không chỉ đồng hành thiêng liêng mà cả đồng hành mục vụ và đồng hành trong đời sống nữa. Hoa trái của tình bạn linh mục thì rất quý giá. Tuy nhiên, DNA Ba Ngôi của Hội Thánh còn đòi hỏi hơn nữa. Thực vậy, làm sao chúng ta có thể nói về Thiên Chúa Đấng là hiệp thông, và làm sao chúng ta có thể là các đầy tớ và các thợ xây tòa nhà Hội Thánh vốn là hiệp thông, nếu chúng ta, các thừa tác viên không sống hiệp thông với nhau, với giám mục của mình, và với toàn thể Dân Thiên Chúa, một sự Hiệp thông sống động và sâu xa? Và như thế thì làm thế nào chúng ta có thể nói về chính chúng ta như là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất với toàn thể nhân loại” (Lumen Getium, số 1).

LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO NÀO?

Đến đây, các tọa độ nền tảng cho việc đào tạo linh mục đã được vạch ra rõ ràng rồi. Ở đây tôi làm nổi bật ba điểm trong đó. Để thực hiện điều này, tôi dựa vào Pastores Dabo Vobis và Ratio mới về việc đào tạo linh mục, đồng thời dựa vào Đức Thánh Cha Phan-xi-cô:

1. Chủng viện, trường học Tin Mừng

2. Nhà và trường học của sự hiệp thông

3. Lượng giá ơn gọi theo quan điểm truyền giáo.

Chủng viện, trường học Tin Mừng

Chúng ta hãy đối diện với điều này một cách thẳng thắn: Chủng viện không phải là một nhà máy sản xuất linh mục, nhưng là một nơi để học biết cách sống trong tư cách là kẻ đi theo Chúa Giê-su!

Tông huấn Pastores Dabo Vobis khẳng định: “Căn tính sâu xa nhất của chủng viện là được mời gọi, theo cách riêng của mình, trở thành một sự tiếp nối trong Hội Thánh, một cộng đoàn tông đồ được quy tụ quanh Chúa Giê-su, lắng nghe lời Ngài, tiến tới kinh nghiệm Phục Sinh, chờ đợi ân huệ của Thần Khí cho sứ vụ” (số 60).

Vì vậy, Pastores Dabo Vobis mô tả chủng viện là “trường học của Tin Mừng” và chỉ ra: “trước khi là một nơi, một không gian vật chất, chủng viện phải là một không gian thiêng liêng, một lộ trình cho cuộc sống. […] Được đào tạo làm linh mục có nghĩa là làm quen với việc đưa ra câu trả lời cách cá vị cho câu hỏi nền tảng của Chúa Ki-tô: “Con có yêu mến thầy không?”. “Đối với linh mục tương lai, câu trả lời chỉ có thể là dâng hiến toàn bộ cuộc đời của chính mình” (Số 42).

Hiển nhiên là kế hoạch đào tạo này không chỉ bắt đầu trong chủng viện, nhưng đã khởi sự từ trong gia đình và trong giáo xứ rồi. Nếu các gia đình và các giáo xứ sống động, có lối sống đậm chất Tin Mừng, những ơn gọi đích thực sẽ nảy sinh. Và cũng vậy, rõ ràng là hành trình đào tạo linh mục không thể kết thúc với việc truyền chức. Ở đây chúng ta phải đối diện với một nguyên tắc hướng dẫn xuyên suốt toàn bộ Ratio về việc đào tạo linh mục: “Việc đào tạo linh mục là sự liên tục của một hành trình đơn nhất, ‘hành trình làm môn đệ,’ hành trình này khởi sự với bí tích Rửa Tội và được nên hoàn hảo nhờ các bí tích khai tâm Ki-tô giáo còn lại, được đón nhận như là trung tâm đời sống của một người tại thời điểm gia nhập chủng viện và tiếp tục trong suốt cuộc đời người ấy”. (RFIS, phần giới thiệu, định dạng nhấn mạnh do tôi thêm vào).

Đào tạo trường kỳ và liên tục không chỉ quan trọng ở trong Hội Thánh mà còn trong cả xã hội. Đào tạo phải liên tục và trường kỳ bởi vì chúng ta không bao giờ có thể nói rằng chúng ta “đã học xong,” luôn có cái gì đó mới mà chúng ta cần phải học hỏi. Và điều này quan trọng hơn hẳn khi chúng ta bước theo Chúa Giê-su. “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” là keryma (lời loan báo tiên khởi) của Ngài, lời này nói với mỗi chúng ta hằng ngày (Mc 1,15).

Đức Thánh Cha Phanxicô rất rõ ràng ở điểm này. Bài giảng ngày lễ Truyền Dầu của ngài vẫn còn vang vọng bên tai tôi: “Vào phút cuối ngày, chúng ta hãy chăm chú nhìn lên Chúa, và để cho Ngài nhìn vào tâm hồn ta và tâm hồn của tất cả những ai chúng ta đã gặp gỡ. Không phải để đếm tội mình, nhưng là để chiêm ngắm trong yêu thương, trong khi chiêm ngắm chúng ta nhìn lại ngày sống với đôi mắt của Chúa Giê-su, nhìn ra những ân sủng và ơn lành, rồi dâng lời tạ ơn vì tất cả những gì Chúa đã làm cho chúng ta. Nhưng, chúng ta cũng hãy đặt trước mặt Ngài những cám dỗ của mình, để nhận diện chúng và khước từ chúng. Khi chúng ta có thể nhìn thấy, hãy nhận biết những gì đẹp lòng Chúa và những gì Ngài yêu cầu cầu chúng ở đây và lúc này, tại thời điểm này trong đời sống chúng ta. Và có thể, nếu chúng ta bắt gặp cái nhìn nhân từ của Ngài, Ngài cũng sẽ giúp chúng ta cho Ngài thấy những ngẫu tượng của chúng ta. Những ngẫu tượng mà, giống như bà Ra-khen, chúng ta giấu ở bên dưới áo choàng của mình (x. Sáng thế 31,34-35). Hãy để cho Chúa thấy những ngẫu tượng mà ta giấu diếm này – tất cả chúng ta đều có; tất cả chúng ta! – và hãy để cho Ngài thêm sức giúp chúng ta chống lại chúng và triệt tiêu sức mạnh của chúng.”

Nếu chúng ta không muốn sa vào các ngẫu tượng, thì chỉ chọn Thiên Chúa cách rõ ràng và Tin Mừng của Ngài mà thôi phải là nền tảng cho đời Ki-tô hữu và đời linh mục của chúng ta. Không có chỗ cho tính quy về mình, ngay kể cả nhân danh ích lợi cho việc mục vụ. Đây là nhận thức sâu xa của Đấng đáng kính Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận, khi mà, sau những năm tháng hoạt động mạnh mẽ và công việc mục vụ đầy hoa trái, ngài đột nhiên nhận thấy mình bị khóa chặt trong nhà tù. Điều gì còn lại và chỉ có điều gì là chính yếu? Thiên Chúa chứ không phải là công việc của Thiên Chúa!

Dần dần, Trường học Tin Mừng này phải dẫn chúng ta đến chỗ từ bỏ chính mình, trút bỏ mọi vinh quang (x. Pl 2) ngõ hầu làm cho mình ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su, Đấng đã trao hiến mạng sống của mình làm giá chuộc muôn người (Mc 10,45; 1Tm 2,6) và nhờ đó Dân mới của Thiên Chúa được sinh ra (x. Ga 16,21). Chúa Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, Chịu Chết và Sống Lại, là mô mẫu không thể sánh ví của mọi Ki-tô hữu và, một cách đặc biệt, là mô mẫu của các linh  mục: người Linh Mục tuyệt hảo.

Nhà và trường học của sự hiệp thông

Để phục vụ một Hội Thánh là hiệp thông và có sứ vụ kiến tạo sự hiệp thông, chiều kích hiệp thông của ơn gọi linh mục và việc đào tạo linh mục không thể bị coi là phụ tùy. Chúng ta biết có bao nhiêu là vấn đề – và biết bao nhiêu là sự lạm dụng – đến từ sự cô đơn và chủ nghĩa cá nhân của các linh mục, đến từ việc khó mở lòng mình ra với vị linh hướng với một lòng tin tưởng và không có khả năng nói với người khác kinh nghiệm của mình về Thiên Chúa, đến từ việc khó sống tình huynh đệ (giữ được sự quân bình giữa gần gũi và khoảng cách) giữa linh mục và giáo dân – Tất cả những khía cạnh này phải được lưu ý cẩn thận trong công cuộc đào tạo linh mục. Nhưng ở đây có một vấn đề nan giải thách đố chúng ta; một vấn đề mà tôi thường tự vấn cùng với các giám mục khi các ngài nói đến những vấn đề của chủng sinh và linh mục: ai là người mà các chủng sinh kính trọng nếu không phải là các linh mục, đầu tiên là các nhà đào tạo? Và ai là người mà các linh mục kính trọng nếu không phải là giám mục? Có một sự hiệp thông, một đời sống đượm tình huynh đệ giữa các nhà đào tạo và giữa các giám mục với nhau không?

Nhưng chúng ta cần mở rộng cái nhìn của mình ra xa hơn. Chắc chắn, chính Thiên Chúa là nhà đào tạo đầu tiên trong công cuộc đào tạo linh mục, “nhà đào tạo lành nghề, kiên nhẫn và giàu lòng thương xót, của chúng ta.” Nhưng như các Giáo phụ đầy khôn ngoan đã diễn tả: “Không thể có Thiên Chúa là Cha nếu không có Hội Thánh là Mẹ.” Chính ở giữa lòng Dân Thiên Chúa và cùng với Dân Thiên Chúa mà tất cả các ơn gọi Kitô hữu được phát sinh. Tôi nghĩ rằng trong những năm tới đây, chúng ta sẽ phải tiếp tục suy tư nhiều hơn nữa về điều này.

Hành động đầu tiên của Chúa Thánh Thần, như Ratio fundamentalis nói là, “yêu cầu một sự lắng nghe nhau và hợp tác với nhau giữa các thành phần của cộng đoàn Hội Thánh: linh mục, phó tế, những người sống đời thánh hiến” (số 125). Chúng tôi ngày càng ý thức được rằng: một nền đào tạo cân bằng và vững chắc nói chung, cũng như nền đào tạo hàng giáo sỹ nói riêng, rất cần thiết có sự đóng góp của tất cả các thành phần trong Dân Thiên Chúa: những người nam và người nữ, linh mục, giáo dân và những người sống đời thánh hiến.

Cho tôi chia sẻ một cảm nghiệm của cá nhân tôi. Một số nữ tu đã chăm sóc tôi, làm cho tôi khám phá ra ơn gọi của tôi và đã khuyến khích tôi với tấm lòng của một người mẹ để vun trồng hạt mầm ơn gọi mà các sơ nhận ra Chúa đã gieo vào tâm hồn tôi. Tôi sẽ mãi mãi biết ơn các sơ.

Lượng giá ơn gọi theo quan điểm truyền giáo

Cuối cùng là chiều kích truyền giáo của công cuộc đào tạo. Từ Hy-lạp apostoloi có nghĩa là “được sai đi” – những người ra đi thi hành sứ vụ. Sách Công Vụ Tông Đồ (x. 1,8; 2,32; 3,15,…) cho thấy rõ ràng, được sai đi có nghĩa là trở thành “chứng nhân” – “chứng nhân” cũng có nghĩa là tử vì đạo (mártyres). Lịch sử Hội Thánh trên quê hương đất nước tôi luôn nhắc nhở tôi về sự tử đạo: chúng tôi có nhiều thánh tử vì đạo, và linh mục tiên khởi của Hàn Quốc là thánh Andrea Kim, là một vị thánh tử vì đạo. Ngay từ khi tôi chưa được rửa tội, trường trung học cơ sở và trung học phổ thông mà tôi theo học đều mang tên ngài. Đó là nguồn gốc ơn gọi của tôi.

Các thánh tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng, trở thành linh mục không phải là đi tìm kiếm một địa vị, một nơi ẩn núp, một chốn an toàn. Trở thành linh mục có nghĩa là được sai đi để trở thành chứng nhân. Bên cạnh những thứ khác cần phải có, điều này đòi hỏi một lòng liêm chính thực sự nơi ứng viên, lòng liêm chính này phải được nuôi dưỡng và lượng giá trong suốt toàn bộ tiến trình đào tạo. Một người không thể trở thành linh mục mà trước hết không phải là một con người trưởng thành và thực sự liêm chính. Trước toàn thể Bộ Giáo sĩ, trong cuộc họp ngày 3 tháng 10 năm 2014, Đức Phan-xi-cô nói: “Xin chúng ta cần phải tìm hiểu cẩn thận hành trình của một ơn gọi! Kiểm tra kỹ lưỡng xem ơn gọi đó có đến từ Chúa hay không? Ơn gọi linh mục của người đó có lành mạnh và người đó có quân bình hay không? Người đó có khả năng tự hiến, khả năng loan báo Tin Mừng, và khả năng xây dựng gia đình nhưng sẵn sàng từ bỏ để theo Chúa Giêsu hay không?”

Ngày nay, trong một xã hội kết nối đa nguyên và toàn diện, một linh mục tương lai không thể sống cô lập, trong một không gian được bảo vệ, giống như một cái cây mong manh được trồng trong lồng kính. Linh mục tương lai cần phải có khả năng tiếp xúc thực với tất cả mọi người, và trong bối cảnh ấy người linh mục phải học biết, không chỉ làm sao để đứng vững bằng đôi chân của mình, mà còn phải biết làm sao để chia sẻ Tin Mừng.

Chúng ta đọc trong Evangelii Gaudium: “Một nhà truyền giáo thực thụ, người không ngừng là một môn đệ, biết rằng Chúa Giê-su bước đi với mình, nói với mình và thở cùng mình, làm việc với mình. Người đó cảm nhận được Chúa Giê-su đang hoạt động bên mình giữa cánh đồng truyền giáo” (số 266). Cũng vậy, Ratio Fundamentalis lặp lại: “Chiều kích truyền giáo này hướng sự tập trung vào những người được kêu gọi lên chức linh mục thừa tác một cách đặc biệt, như là mục đích và chân trời của tất cả công cuộc đào tạo” (số 91).

Trở thành linh mục có nghĩa là học cách thiết lập các mối tương quan và đối thoại với tất cả mọi người với khả năng rộng mở 360 độ, học cách đâm rễ sâu vào trong Tin Mừng, nhưng cũng phải học biết cách khám phá ra những điều tốt lành nảy nở từ những nơi bất ngờ nhất. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô viết trong Evangelii Gaudium: “Chúng ta cần phải nhìn vào các thành đô của chúng ta với một cái nhìn chiêm niệm, một cái nhìn của đức tin, để thấy Thiên Chúa cư ngụ trong các gia đình, các đường phố và các quảng trường. Sự hiện diện của Thiên Chúa đồng hành với những nỗ lực chân thành của các cá nhân và các hội nhóm để tìm sự nâng đỡ và ý nghĩa trong cuộc đời họ. Ngài hiện diện ở giữa họ, cổ võ sự liên đới, tình huynh đệ, và lòng khao khát sự thiện, sự thật và công lý. Sự hiện diện này phải được tìm thấy và phát hiện ra chứ không phải là một sự bịa đặt” (số 17).

Trong suốt sứ vụ linh mục của mình, tôi đã thấy được biết bao hoa trái trổ sinh từ lối tiếp cận với mọi người này. Ngay cả khi là giám mục Giáo phận Daejeon, tôi đã cố gắng đồng hành với tất cả mọi người nhiều nhất có thể. Chính vì thế, một mạng lưới nhiều các mối tương quan khác nhau đã được thiết lập – một tình bạn đẹp với một tu sĩ Phật giáo. Chúng tôi thường có những cuộc gặp gỡ hết sức nồng ấm và gần gũi. Lúc tôi chia tay trước khi lên đường đi Rôma, người bạn ấy nói với tôi: “Nụ cười của anh chinh phục mọi người!” Sau đó ông gửi cho tôi một tin nhắn: “Giờ đây, thế giới trở thành quê hương của anh. Nơi đó, tại Rôma, anh sẽ sống vì mọi người, anh sẽ đối xử tốt với mọi người”. Tôi lấy đó như một lệnh truyền, một sứ vụ, sẽ theo tôi mọi ngày trong sứ vụ phục vụ mới của tôi.

Kết luận

Tôi kết thúc những suy tư này bằng cách lại trở lại với Tông Hiến Praedicate Evangelium về Giáo triều Rôma và sứ vụ phục vụ của Giáo triều cho Hội Thánh và cho thế giới. Với tài liệu này, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô không chỉ muốn cải tổ Giáo triều, mà còn trực tiếp cải tổ toàn thể Hội Thánh một cách dứt khoát theo hướng loan báo Tin Mừng và thực thi bác ái. Chúng ta hãy lấy ra một số vấn đề từ một số đoạn trong phần mở đầu của Tông Hiến này:

“Praedicate Evangelium – Hãy đi loan báo Tin Mừng” (x. Mc 16:15; Mt 10:7-8): đây là nhiệm vụ mà Chúa Giê-su đã ủy thác cho các môn đệ. Lệnh truyền này cấu thành “sứ vụ phục vụ chính yếu mà Hội Thánh dành cho tất cả các cá nhân và tất cả loài người trong thế giới hiện đại” […] “Chúa và là Thầy của chúng ta đã để lại cho chúng ta tấm gương về điều này khi Ngài rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố rằng chúng ta sẽ được phúc nếu chúng ta cũng làm như vậy” (x. Ga 13:14-17, số 1).

Trong Hội Thánh, “sứ vụ và hiệp thông liên kết với nhau mật thiết đến nỗi chúng ta có thể nói rằng mục tiêu của sứ vụ truyền giáo chính xác là “làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông ‘mới’ mà Con Thiên Chúa làm người đã khai mào trong dòng lịch sử thế giới” (số 4).

“Cải tổ tự nó không phải là mục đích, nhưng là một phương thế để đưa ra một chứng tá thuyết phục hơn về Đức Kitô; để cống hiến một công cuộc loan báo Tin Mừng hữu hiệu hơn; để thăng tiến một tinh thần đại kết hiệu quả hơn; để cỗ võ một cuộc đối thoại có tính xây dựng với tất cả mọi người” (số 12).

Các giám mục yêu quý của tôi,

Tôi tin rằng chúng ta chỉ có thể thực hiện được tất cả những điều này nếu đời sống của chúng ta được thấm đượm Lời Chúa ngày một hơn. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể thực thi được nhiệm vụ lớn lao mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã chỉ ra cho chúng ta trong tông huấn Evangelii Nuntiandi–Loan Báo Tin Mừng, và nhiệm vụ này đặc biệt thích đáng với lục địa Châu Á của chúng ta:

“Không nghi ngờ gì nữa, sự chia cắt giữa Tin Mừng và Văn Hóa là một bi kịch của thời đại chúng ta, cũng như của các thời đại khác. Chính vì thế, phải dồn mọi nỗ lực để bảo đảm một cuộc phúc âm hóa văn hóa toàn diện, hay đúng hơn là Phúc âm hóa mọi nền văn hóa. Chúng phải được cải hóa nhờ tiếp xúc với Tin Mừng” (số 20).

Dịch xong ngày 25/7/2023, lễ thánh Gia-cô-bê Tông đồ

Người dịch: Lm. Phao-lô Nguyễn Hữu Hiệp (TGP. Hà Nội)

Facebook

Twitter

Email

Print

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org