Bài 30: Sách A-mốt

I. BỐI CẢNH

Trong bài học trước, chúng ta đã chứng kiến tình yêu của Thiên Chúa dành cho Ít-ra-en phản bội qua cuộc đời và sứ vụ của ngôn sứ Hô-sê. Hôm nay, chúng ta đến với ngôn sứ A-mốt. Giống như Hô-sê, A-mốt là một ngôn sứ tuyên sấm tại miền Bắc vào thế kỷ VIII tCn. Trong thời kỳ này, Ít-ra-en và Giu-đa đang hưởng thái bình và sự triển nở về kinh tế. Sự phát triển về kinh tế cũng kèm theo sự phát triển của các hoạt động tôn giáo. Các điện thờ ở Bết-Ên, Đan, Ghin-gan và Beer-she-ba có đông số các tín đồ đến dâng lễ vật sát tế. Tuy nhiên, Thiên Chúa không hài lòng về những lễ vật họ dâng cúng vì lối sống vô luân của họ (x. Am 2,6-8).  Chính trong bối cảnh này mà A-một được kêu gọi.

II. NỘI DUNG

1. Ngôn sứ A-mốt

Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vị ngôn sứ A-mốt. Danh xưng “A-mốt”, trong nguyên ngữ Do-thái, có nghĩa là “gánh vác”. Ông sống vào thế kỷ VIII tCn thời Út-di-gia làm vua tại Giu-đa (783-742 tCn), và Gia-róp-am con của Giô-at làm vua tại Ít-ra-en[1] (786-746 tCn). Ông là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung (Am 7,14) ở miền quê Tơ-co-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng 10 km về phía Nam, trên đường vành đại hoang địa Giu-đê-a.[2] Ông không phải là một ngôn sứ chuyên nghiệp. Ông chỉ là một tín hữu bình dị được Chúa sai đi tuyên sấm. Tuy nhiên, A-mốt không phải là người không có hiểu biết. A-mốt biết lịch sử của Ít-ra-en và lịch sử của các nước thân cận Ít-ra-en. Ông biết rõ tình hình chính trị, xã hội và tôn giáo. Ông có đức tính can đảm để bảo vệ người bần khổ, và chống lại những kẻ áp bức. Việc cảm nhận mạnh mẽ về tiếng Chúa gọi để tuyên sấm là một sức mạnh cho sứ vụ của ông: “Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và chính Đức Chúa đã truyền cho tôi” (Am 7,15).

2. Sách A-mốt

a. Tác giả

Ai viết sách A-mốt? Sách A-mốt được xem là một cuốn sách được hình thành qua một giai đoạn dài lịch sử. Bởi thế cuốn sách này được xem như là một công việc của các môn đệ của A-mốt hay giới ngôn sứ. Họ đúc kết các sấm ngôn và các diễn từ mà A-mốt đã nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.[3]

b. Văn chương

Ngôn ngữ khôn ngoan, mộc mạc, bột phát, độc điệu và hay nhắc đi nhắc lại. Tuy nhiên, lời sấm của A-mốt rất mạnh mẽ. Cách đặt câu hỏi hùng biện, nghĩa là đưa ra câu hỏi mà không trả lời. Thêm vào đó là cách sử dụng hình ảnh minh họa.

c. Bố cục

– Nhập đề: 1,1
A. Tám lời sấm lên án các dân nước trong đó có Ít-ra-en (1,2-2,16)
B. Các lời sấm trên Ít-ra-en (3,1-6,14)
C. Năm thị kiến (7,1-9,10)
– Lời kết: Viễn tượng phục hưng (9,11-15)

3. Sứ điệp của A-mốt

a. A-mốt công bố: Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là Đấng siêu việt trên toàn thế địa cầu.

Chúa là Đấng tạo thành thế giới. Người tạo thành các núi đồi. Người làm gió làm mưa. Người phân tách ngày và đêm. Không ai có thể chạy thoát khỏi quyền năng của Chúa. Quyền năng của Chúa biểu lộ trong sự thánh thiện và công chính của Người. Chúa là Đấng phán xét công minh. Trọng tâm của sứ điệp là Thiên Chúa sẽ xét xử để trừng phạt Ít-ra-en, vì dân này cũng phạm tội như các dân khác: “Hỡi con cái Ít-ra-en, hãy nghe lời này, lời Đức Chúa phán để tố cáo các ngươi, tố cáo toàn thể thị tộc đã được Ta đưa lên khỏi đất Ai-cập. Lời ấy nói rằng: Giữa mọi thị tộc trên mặt đất, Ta đã chỉ biết các ngươi thôi. Vì thế, Ta sẽ hạch hỏi các ngươi về mọi tội các ngươi đã phạm” (Am 3,1-2). Đức Chúa đã tự ý chọn và lập Giao ước với Ít-ra-en thì họ phải biết sống thánh thiện giữa các dân tộc khác mà tuân giữ các lề luật của Chúa. Trái lại, họ chỉ thỏa mãn với những kinh lễ hào nhoáng bề ngoài. Đằng khác, họ coi thường công bình và luân lý, rồi cứ lạc quan chờ mong Chúa đến.

b. Thêm vào đó, A-mốt củng cố công bình xã hội

Mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa phải đi song song với mối tương quan giữa con người với nhau. Con người không chỉ có bổn phận với Thiên Chúa mà còn có bổn phận với nhau. Xuất phát từ đạo lý này, A-mốt tố cáo những bất công trong xã hội và việc giữ đạo hình thức (2,6-7; 4,1; 5,7,11,24; 8,4-6) như việc bán người công chính để lấy tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày, đạp đầu kẻ yếu thế xuống bùn đen và xô người khiêm hạ ra khỏi đường lộ, mong cho ngày mồng một và ngày sa-bát qua đi để buôn bán, làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm để đánh lừa thiên hạ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ, và bán cả lúa nát gạo mục.

Thiên Chúa của A-mốt đòi mọi người phải tôn trọng phẩm giá của người khác bởi vì mọi người đều sẽ bị phán xét. Người luôn đứng về phía những kẻ bị áp bức, nghe được tiếng than của họ. Quả thế, Thiên Chúa muốn mọi người được cứu thoát chứ không phải bị diệt vong. Từ đời sống một dân quê chăn cừu và chăm sóc sung, chắc chắn A-mốt đã lấy cuộc sống xa hoa nơi thị thành làm chướng tai gai mắt, nhưng điều làm ông trở nên cương quyết và nghiêm khắc chính là nếp sống văn minh thịnh vượng và nhất là tổ chức tôn giáo hào nhoáng ấy che đậy một sự ung thối xã hội và luân lý lớn lao.

A-mốt chống lại kiểu phụng tự hình thức (5,21-24). A-mốt tấn công sự an toàn giả dối về tôn giáo; ngài châm biếm các thánh điện, nhất là thánh điện Bết-en (3,14; 4,45,5-6; 7,10,13), Ghin-gan (4,4) và Dan (8,4) và chống lại các sinh hoạt phụng tự được thực hiện tại đó. Bằng những việc phụng tự hình thức bề ngoài này, dân chúng cảm thấy an toàn, bởi vì biết mình là dân được Đức Chúa tuyển chọn. Tóm lại, A-mốt không nói nhiều về việc thờ các thần ngoại. Tội lớn nhất của Ít-ra-en là tách biệt giữa đời sống phụng tự với việc liên hệ với người thân cận.

c. Hơn thế nữa, A-mốt công bố “Ngày của Đức Chúa

Ít-ra-en mong đợi ngày của Chúa đến, một ngày chan hòa ánh sáng huy hoàng, vinh quang chiến thắng và phú quý lợi lộc cho toàn dân. Tuy nhiên, A-mốt phá bỏ quan niệm tôn giáo này và cho Ít-ra-en thấy rằng, vì đã nhận được ơn giải thoát từ phía Đức Chúa, chẳng hơn gì các dân tộc khác, bởi vì không phải chỉ có họ là đã được Đức Chúa cứu thoát. Đây không phải là một đặc quyền để mà tự hào và dựa vào đó mà nghĩ là mình được bảo đảm, nhưng là một điều kiện yêu cầu một trách nhiệm nặng nề đối với Chúa. Ngày Chúa đến sẽ là một ngày khủng khiếp, mịt mù đen tối: “Trong ngày ấy, – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng -, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng. Ta sẽ biến lễ lạt của các ngươi thành tang tóc, mọi bài hát của các ngươi thành những khúc ai ca; Ta sẽ bắt mọi người phải quấn vải thô và mọi mái đầu đều phải cạo trọc. Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một và kết cục của nó như một ngày cay đắng” (Am 8,9-10).

d. Hy vọng phục hồi của Ít-ra-en

Phải chăng lời chừng phạt là lời cuối cùng dành cho Ít-ra-en? Lời cuối cùng của A-mốt không phải là một lời kết án, mà là lời hứa cứu độ: 11 Trong ngày ấy, Ta sẽ dựng lại lều xiêu vẹo của Đa-vít, bít kín các lỗ hổng của tường thành, tái thiết những gì đã tan hoang, xây dựng nó như những ngày xưa cũ  Ta sẽ đổi vận mạng của Ít-ra-en dân Ta: chúng sẽ tái thiết những thành phố điêu tàn và định cư ở đó; chúng sẽ uống rượu vườn nho mình trồng, ăn thổ sản vườn mình canh tác. 15 Ta sẽ trồng chúng lại trên đất xưa chúng ở, và chúng sẽ không còn bị bứng đi khỏi thửa đất Ta đã ban cho chúng (x. Am 9,11-15).

III. KẾT

Tóm lại, thưa cộng đoàn, trong một khung cảnh hoang tàn và chết chóc, giữa một xã hội tưởng chừng như chẳng còn gì để hy vọng được thương xót và được cứu sống, A-mốt đã cho Ít-ra-en thấy một tia hy vọng khi công bố: “Quả thế, Đức Chúa phán thế này với nhà Ít-ra-en: Hãy tìm Ta thì các ngươi sẽ được sống!” (Am 5,4). Tìm kiếm Chúa và thực thi thánh ý Người là con đường sống. Tìm kiếm Chúa là làm việc thiện và sống công chính. Xây dựng một xã hội công bình hơn, bác ái hơn là cách duy nhất để tránh được hình phạt.

Thưa cộng đoàn, câu chuyện của A-mốt và những sứ điệp của ông không bao giờ lỗi thời. Phải chăng hôm nay chúng ta vẫn đang sống trong một xã hội giống như xã hội của A-mốt năm xưa, một xã hội đong đầy những bạo lực và những bất công, những lối sống vô đạo và giả tạo.Vậy, mỗi chúng ta hãy là một A-mốt cho xã hội hôm nay.

Cảm ơn cộng đoàn đã quan tâm lắng nghe theo dõi. Trong bài học tiếp theo chúng ta cùng nhau tìm hiểu sách ngôn sứ Mi-kha. Xin kính chào và hẹn gặp lại.


[1] Ít-ra-en ở đây có ý nói đến vương triều miền Bắc.

[2] Xem James Philip Hyatt, “The Book of Amos,” Interpretation 3.3 (1949): 338–48.

[3] Fx. Vũ Phan Long, Các Sách Ngôn Sứ, tr. 63.

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org