Bài 29: Sách Hô-sê

I. BỐI CẢNH

Trong bài học tuần trước, chúng ta đã khép lại 4 sách Đại Ngôn sứ sau khi tìm hiểu sách Đa-ni-en. Hôm nay, chúng ta đến với sách Hô-sê. Đây là tác phẩm đầu tiên của bộ sách 12 Tiểu Ngôn sứ.

Sách Hô-sê dẫn chúng ta quay trở lại với thế kỷ thứ VIII tCn. Đây là giai đoạn mà cả Ít-ra-en và Giu-đa đều được phồn thịnh bình an giống như thời đỉnh cao của Sa-lô-môn, dưới sự trị vì của các vua danh tiếng là Gia-róp-am của Ít-ra-en và Út-di-gia ở Giu-đa. Chính trong sự hưng thịnh mà Ít-ra-en trở nên điểm ngắm của đế quốc Át-sua. Át-sua trở thành mối đe doạ cho nền độc lập của Ít-ra-en. Hơn thế nữa, Ít-ra-en đã trở nên hư đốn và đã phạm vào tội chết. Họ đã bỏ Đức Chúa là Thiên Chúa của họ để đi thờ ngẫu tượng. Tuy nhiên, cho dù Ít-ra-en đáng phải chết vì tội lỗi của họ, nhưng Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương họ. Qua ơn gọi và đặc biệt qua câu chuyện hôn nhân của Hô-sê, chúng ta hãy cùng khám phá tình thương và lòng thành tín của Thiên Chúa.

II. BỐ CỤC

1. Ngôn Sứ Hô-sê

Trước hết, Hô-sê là ai? Thuật ngữ Hô-sê trong tiếng Híp-ri có nghĩa là “Ngài cứu độ”. Hô-sê có cha là Bơ-ê-ri và vợ là Gô-me và 3 người con là Gít-rơ-en (Thiên Chúa gieo), Lô Ru-kha-ma (Không được thương), Lô Am-mi (Không phải dân Ta).

Thứ đến, ơn gọi và sứ vụ của Hô-sê là gì? Hô-sê là một trong 4 ngôn sứ thực thi sứ vụ vào thế kỷ VIII tCn bào gồm A-mốt, I-sai-a và Mi-kha. Hô-sê bắt đầu hoạt động ngôn sứ vào những năm cuối cùng của triều đại Gia-róp-am II (k. 782-753 tCn) ở vương quốc miền Bắc là Ít-ra-en. Ông lên án giới cầm quyền và tỏ bày nỗi thất vọng của ông khi nói đến chế độ quân chủ. Tuy nhiên, vấn đề mà Hô-sê bận tâm nhất, đó là thói thờ ngẫu tượng của Ít-ra-en. Chính hôn nhân của Hô-sê là một hành động ngôn sứ và tấm bi kịch hôn nhân bao gồm vợ và con cái ông, là một phần của ơn gọi ngôn sứ của ông (Hs 1-3). Hô-sê kể lại cuộc đời hôn nhân của ông và coi như một biểu tượng: việc thờ ngẫu tượng là một thứ mãi dâm. Hôn nhân của Hô-sê với một cô gái điếm Gô-me có nghĩa là Đức Chúa là hôn phu của một dân tộc thờ các Ba-an. Rồi cũng như vị ngôn sứ đã giam Gô-me lại để sửa dạy, Đức Chúa sẽ dùng lưu đầy để thanh luyện dân. Cuối cùng, đời sống chung đã được tái lập giữa Hô-sê và Gô-me là một hứa hẹn rằng các tương quan Đức Chúa và dân Người sẽ được nối kết lại. Như thế, trong kinh nghiệm hôn nhân của mình, Hô-sê đã nhấn mạnh đến tình yêu của Đức Chúa mà không được tìm thấy cùng một cấp độ trong bất cứ ngôn sứ nào khác.[1]

2. Sách Hô-sê

a. Bố cục

Sách Hô-sê gồm 14 chương được chia thành 3 phần chính:

  • Phần I: Khung cảnh của kinh nghiệm riêng tư của Hô-sê (ch. 1-3)
  • Phần II: Tội và hình phạt của Ít-ra-en (ch. 4-14).
    Chỉ trích định tư tế (ch. 4-7)
    Chỉ trích các tư tế, vua và dân (ch. 8-10)
    Tương quan giữa Đức Chúa và Ít-ra-en (ch. 11-14)
  • Phần III: Hy vọng mới cho Ít-ra-en (14,2-9)

b. Ngôn ngữ

Việc sử dụng hình ảnh là một trong những nét riêng của sách Hô-sê. Hình ảnh không phải chỉ diễn tả thái độ của dân, nhưng còn mô tả hành động và chính bản thân Thiên Chúa nữa. Những hình ảnh này rất là nhiều, được rút ra từ những tương quan từ thế giới loài người cũng như thế giới loài vật. Ví dụ: Ít-ra-en tựa bồ câu khờ dại (7,11); Thiên Chúa như sư tử (5,14; 13,7), tựa con báo, như gấu mất con, như sư tử cái (13,7-8); và rút ra từ thế giới thảo mộc nữa: Ít-ra-en vốn là cây nho sum suê (10,1), khác nào chùm nho trong sa mạc (9,10); Thiên Chúa như một cây trắc, giới lãnh đạo chính trị được ví như hoả lò (7,4.7), họ trở về cùng Chúa và yêu mến Chúa chỉ như mây buổi sáng, mau tan tựa sương mai (6,1.4).

3. Sứ điệp

a. Ít-ra-en là dân Chúa

Ít-ra-en là dân Chúa. Đây chính là niềm tin căn bản của Hô-sê trong những lời sấm của ông. Để khẳng định niềm tin này, Hô-sê đã nhắc lại giao ước xưa mà Thiên Chúa đã lập với A-đam, với Gia-cóp, và giao ước Xi-nai. Có lẽ không ngôn sứ nào ý thức sâu xa về quá khứ của Giao ước Xi-nai hơn Hô-sê. Tưởng nhớ về Xuất hành, ngày tháng sống trong hoang địa, Giao ước tại Xi-nai, và việc xâm chiếm đất Ca-na-an luôn hiện diện trong tâm trí của Hô-sê như chúng ta thấy ông giải thích các biến cố và điều kiện của thời ông. Hô-sê tự hiểu mình là kẻ thừa kế Mô-sê, kẻ giải thích và cũng là kẻ bầu chữa lớn nhất của Giao ước. Hô-sê nhận thức được rằng Ít-ra-en là một sự lựa chọn yêu thương của Đức Chúa được thể hiện qua kinh nghiệm Xuất hành. Chính tại hoang địa mà Đức Chúa đã thành lập Ít-ra-en như một dân tộc, tương tự như một trái nho đầu mùa (9,10). Xuất hành còn là dấu chỉ của một sự tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa và dân, tương tự như Cha và con (11,1). Những biến cố xưa kia được nhắc lại để nhắc nhớ cho Ít-ra-en biết rằng họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Chúa. Đức Chúa chính là người chồng đầu tiên của Ít-ra-en: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa” (Hs 2,21-22).

b. Ít-ra-en phản bội tình yêu của Đức Chúa và phá vỡ giao ước[2]:

Hô-sê là ngôn sứ đầu tiên giải thích Giao ước bằng hình bóng của tương quan chồng-vợ. Hô-sê sử dụng hình ảnh của hôn nhân thánh thiêng để nói đến mối tương quan giữa Đức Chúa và Ít-ra-en là một giải thích táo bạo về niềm tin của Ít-ra-en. Đây là phong cách độc đáo của Hô-sê. Thay vì giải thích hôn nhân của Thiên Chúa bằng việc quy chiếu về những xoay vần của thiên nhiên, Hô-sê nói đến một hôn nhân mang tính lịch sử được thực hiện tại hoang địa giữa Thiên Chúa và một dân. Và ý nghĩa của cuộc hôn nhân này được mặc khải cho Hô-sê, không bằng việc suy tư về một cuộc hôn nhân của một thần nam và một thần nữ, nhưng bằng một sự hiểu biết sâu xa xuất phát từ kinh nghiệm hôn nhân của ông với Gô-me.

Ít-ra-en phản bội tình yêu của Đức Chúa và phá vỡ giao ước. Điều này được diễn tả tương tự như Gô-me đã rời bỏ Hô-sê chạy theo các tình nhân. Ít-ra-en đã phá huỷ Giao ước với Đức Chúa để chạy theo các thần ngoại. Theo Hô-sê, đây là một thảm kịch lịch sử có thật, và những bất ổn đương thời của Ít-ra-en chỉ là những triệu chứng của thảm kịch sắp xảy đến. Người “vợ” mà Đức Chúa đã chọn và cưới đã trở thành một cô gái điếm. Một “thần khí đĩ điễm” đã đốt cháy dân và dân đã trở nên xa lạ với Thiên Chúa của họ (Hs 4,12).

Thần khí đàng điếm đã dẫn dân đến một tôn giáo sai lạc và tôn thờ ngẫu tượng. Tương tự như các ngôn sứ lớn, Hô-sê biết rằng tôn giáo, nói chung, không phải luôn luôn thực hiện điều tốt, vì tôn giáo cũng có thể là một cách để phản bội Thiên Chúa, một thể hiện của tội lỗi. Tương tự như dân Ca-na-an đương thời, dân Ít-ra-en cũng chạy đến các đền thờ, không phải để, môt cách biết ơn, nhận ra sự lệ thuộc tuyệt đối vào Thiên Chúa của Giao ước, nhưng qua các nghi thức, ngay cả bằng nghi thức “điếm thánh”, để được lợi nào đó từ tôn giáo, ví dụ, an ninh, phú túc, an lạc, giàu sang vật chất… Các tư tế và ngôn sứ, trong khi khai thác lòng ham muốn lợi lộc tôn giáo, đã thực sự tham dự vào sự đàng điếm của Ít-ra-en. Các tư tế “có ăn nhờ dân Chúa phạm tội” (Hs 4,7-10).

Sự trung thành của Ít-ra-en là sự trung thành của một người vợ nhẹ dạ. Ít-ra-en thiếu yêu thương, thiếu chung thuỷ với một Giao ước yêu thương thực sự (Hs 6,6). Hô-sê trình bầy cuộc sống của dân Ít-ra-en như một cuộc gặp gỡ riêng tư với Thiên Chúa, như một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và dân Người, một câu chuyện đan xen những phản bội và sự chung thuỷ, những vi phạm và những lời hứa, tội lỗi và sự tha thứ. Hô-sê chỉ ra rằng: Tội lỗi hệ tại việc bất trung với Thiên Chúa, trong khi Người vẫn không ngừng yêu thương Ít-ra-en bằng một tình yêu tuyển chọn. Hô-sê tố giác tình trạng vô luân của dân chúng và khẳng định rằng khi việc phụng tự bị tách ra khỏi đời sống hằng ngày thì chẳng còn ích gì (Hs 4,1-2).

c. Thiên Chúa là Cha và Ít-ra-en là con (x. Hs 11)

Tính thánh thiện của tình yêu Đức Chúa bao gồm cả hai khía cạnh, phán xét và thương xót, được diễn đạt một cách mỹ miều trong Hs 11. Ở đó hình ảnh được thay đổi từ tương quan giữa chồng-vợ đến tương quan cha-con. Thiên Chúa như người cha hằng yêu thương, kiên nhẫn và thứ tha. Còn Ít-ra-en như đứa con hư hỏng, bất tuân và phản nghịch. Đứa trẻ cần phải được dạy dỗ, và hình phạt sẽ đến từ Ai-cập và Át-sua, đó chính là những dân mà đứa trẻ chạy đến tìm kiếm sự cứu giúp chính trị.

d. Phán xét và Thứ tha

Trong sứ điệp của Hô-sê, phán xét không phải là lời cuối cùng. Ngay cả trong thời điểm tai hoạ Đức Chúa cũng không từ bỏ dân Ngài; tình yêu của Ngài không ngừng dành cho Ít-ra-en. Mục đích đàng sau sự phán xét của Đức Chúa là tình yêu. Hs 11,10-11 trình bày sự tương quan của Thiên Chúa với Ít-ra-en một tương quan của có bóng tối của phán xét, và có ánh sáng của lời hứa canh tân. Có thể với một số người, cơn giận và tình yêu của Thiên Chúa xem ra đối nghịch với nhau, nhưng với Hô-sê, lòng thương cảm của Thiên Chúa vượt lên trên lô-gíc của hiểu biết con người. Tha thứ – hoán cải: khác với khái niệm truyền thống về ơn thứ tha. Theo lẽ thường thì hoán cải đi trước rồi sau đó là ơn tha thứ, nhưng đối với Hô-sê thì tha thứ lại đi trước. Như thế có nghĩa là Thiên Chúa tha thư trước khi con người hoán cải. Thiên Chúa tha thứ ngay cả khi con người không hoán cải. Thiên Chúa luôn luôn tha thứ.[3]

III. KẾT LUẬN

Sau khi tìm hiểu tổng quan sách Hô-sê, chúng ta có thể rút ra một số bài học. Trước hết, Thiên Chúa luôn thành tín và yêu thương con người ngay cả khi con người phản bội lại Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người tội lỗi bằng một tình yêu chung thuỷ, một tình yêu đi bước trước. Thứ đến, chỉ nơi Thiên Chúa con người chúng ta mới tìm thấy nguồn hạnh phúc đích thực. Chỉ nơi Thiên Chúa, chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa của mình. Sau cùng, chỉ trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mới được phục hồi và được triển nở.

“Chúng sẽ trở về cư ngụ dưới bóng Ta,
sẽ làm cho lúa miến hồi sinh nơi đồng ruộng,
tựa vườn nho, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở,
danh tiếng lẫy lừng như rượu Li-băng” (Hs 14,8).

Lm. An-tôn Trần Văn Phú


[3] Fx. Vũ Phan Long, Các Sách Ngôn Sứ, tr. 87.

[2] Giới Thiệu Ngôn Sứ Thánh Kinh, biên soạn Bernard Phạm Hữu Quang, Nxb. Đồng Nai, 2021, tr. 329-333.

[1] Giới Thiệu Ngôn Sứ Thánh Kinh, biên soạn Bernard Phạm Hữu Quang, Nxb. Đồng Nai, 2021, tr. 329.

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org