Trong buổi gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, và các nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Chính toà hai thánh Phê-rô và Phao-lô, trích lời Thánh vịnh 34 “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy”, Đức Thánh Cha khẳng định chính vì cảm nghiệm được tình yêu Chúa mà các nhà truyền giáo đã cống hiến cuộc đời loan báo Tin Mừng. Ngài mời gọi mọi người tiếp tục dấn thân, hiệp thông với giám mục và Giáo hội, và tin rằng Đức Mẹ luôn đồng hành.
Vào lúc 15 giờ 45 phút giờ địa phương, từ Toà Sứ Thần, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ Chính Toà hai Thánh Phêrô và Phaolô để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ và các nhân viên mục vụ.
Nhà thờ Chính toà hai thánh Phêrô và Phaolô
Nhà thờ Chính toà hai thánh Phê-rô và Phao-lô nằm ở quận Bayanzurkh ở phía đông thành phố, được xây dựng vào năm 1996 bởi nhà truyền giáo người Philippines thuộc Dòng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Maria, Wenceslao Selga Padilla. Việc xây dựng ngôi thánh đường bắt đầu ngay sau khi thành lập Hạt Phủ doãn Tông toà Ulaanbaatar vào năm 2002, theo dự án của kiến trúc sư người Serbia Predak Stupar.
Nhà thờ được cung hiến vào ngày 30/8/2003 bởi Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, lúc đó là Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc, với sự hiện diện của Sứ thần Tòa Thánh, Đức Tổng Giám Mục Giovanni Battista Morandini. Cấu trúc của tòa nhà gợi nhớ đến yurt hoặc ger truyền thống, nhà của các dân tộc du mục Mông Cổ, hình tròn, có tường bằng nỉ.
Năm 2005, 36 kính màu hình bán nguyệt đã được thêm vào mái vòm của tòa nhà, dựa trên dự án của Frère Mark, một thành viên của Cộng đoàn Taizé, và họa sĩ Hàn Quốc Cho đã vẽ trên bốn kính đó một con báo tuyết, một con đại bàng, một thiên thần và một con bò, biểu tượng bốn thánh sử Tin Mừng
Nhà thờ có thể chứa khoảng 500 người và có ba cánh, trong đó có các văn phòng hành chính của Phủ doãn Tông toà và một thư viện.
Chào đón Đức Thánh Cha
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được các tín hữu đã đứng đợi từ lâu chào đón nồng nhiệt. Một phụ nữ tiến đến trao cho Đức Thánh Cha một cốc sữa được quấn trong một chiếc khăn màu xanh da trời. Cùng với Đức Hồng Y Phủ doãn Tông toà, Đức Thánh Cha vào trong ger để gặp bà Tsetsege, người phụ nữ cách đây khoảng 10 năm đã nhặt được từ thùng rác một bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ. Sau đó, tượng được đặt trong Nhà thờ Chính toà. Sau ít phút, Đức Thánh Cha đi ra ngoài và lên xe để chào thăm các tín hữu.
“Mẹ Thiên quốc” của tín hữu Mông Cổ – tượng Đức Mẹ được nhặt từ bãi rác
Đức Thánh Cha đến cửa chính của Nhà thờ, tại đây cha xứ và cha phó đưa cho ngài Thánh giá và bình nước thánh để rảy. Ngài tiến vào Nhà thờ, cùng lúc ca đoàn hát để bắt đầu buổi gặp gỡ.
Buổi gặp gỡ được bắt đầu bằng lời chào mừng của Chủ tịch Hội đồng Giám mục. Tiếp đến là lời chứng của một nữ tu truyền giáo, một linh mục Mông Cổ và một nhân viên mục vụ.
Mở đầu bài nói chuyện, Đức Thánh Cha cám ơn các giám mục, linh mục, tu sĩ và nhân viên mục vụ vì sự hiện diện và đức tin của tất cả, đồng thời bày tỏ niềm vì được gặp gỡ mọi người. Ngài khẳng định chính niềm vui Tin Mừng là lý do thôi thúc các linh mục và tu sĩ hiện diện nơi đây, và cùng với anh chị em giáo dân hiến mình cho Chúa và cho người khác. Đức Thánh Cha chúc tụng Chúa vì điều đó, và ngài dùng Thánh vịnh 34 để chia sẻ một số suy nghĩ với mọi người, bắt đầu bằng câu “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy” (c.9).
Chứng tá của những người hiến thân cho Tin Mừng
Đức Thánh Cha nói niềm vui và sự tốt lành của Chúa không phải là điều gì chóng qua, nhưng ở lại bên trong, mang lại hương vị cho cuộc sống và làm cho chúng ta nhìn mọi thứ theo một cách mới. Các nhà truyền giáo đã cảm nghiệm được điều này nên đã dành cả cuộc đời cho Tin Mừng. Vị đầu tiên được Đức Thánh Cha nhắc đến đó là Đức cha Wenceslao Selga Padilla, Phủ doãn Tông tòa đầu tiên, người tiên phong trong lịch sử đương đại của Giáo hội ở Mông Cổ và là người đã xây dựng Nhà thờ Chính Tòa này. Nhưng theo Đức Thánh Cha ở vùng đất này, đức tin không chỉ có từ những năm 90 của thế kỷ trước, nhưng đã có nguồn gốc rất xa xưa. Những kinh nghiệm của thiên niên kỷ thứ nhất, được đánh dấu bằng phong trào loan báo Tin Mừng theo truyền thống Syriac lan rộng dọc theo con đường tơ lụa, được theo sau bởi một sự dấn thân truyền giáo.
Đức Thánh Cha nói: “Làm sao chúng ta có thể quên được các sứ mạng ngoại giao của thế kỷ XIII, cũng như việc chăm sóc tông toà được thể hiện bởi việc bổ nhiệm Đức cha Giovanni da Montecorvino làm Giám mục đầu tiên của Khān Bālīq vào khoảng năm 1310, và do đó ngài chịu trách nhiệm coi sóc toàn bộ khu vực rộng lớn này trên thế giới dưới triều đại Nguyên Mông? Chính ngài là người đã cung cấp bản dịch tiếng Mông Cổ đầu tiên của sách Thánh Vịnh và Tân Ước”
Ngài nói tiếp về sự hồi sinh của Tin Mừng đặc biệt vào năm 1992 với sự xuất hiện của các nhà truyền giáo đầu tiên của Hội dòng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Ma-ri-a, cùng với sự tham gia của các hội dòng khác, các giáo sĩ và giáo dân tình nguyện. Trong số đó ngài nhắc đặc biệt đến cha Stephano Kim Seong-hyeon năng động và nhiệt thành.
Nếm cảm tình yêu Chúa là động lực dấn thân cho Tin Mừng
Đức Thánh Cha đặt câu hỏi “Tại sao các nhà truyền giáo lại dành cuộc đời cho Tin Mừng?”, và ngài trả lời rằng chính vì, như Thánh Vịnh 34 nhắc nhở, chúng ta đã nếm cảm, trải nghiệm trong đời mình sự dịu dàng của tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra, có thể chạm đến, gặp gỡ trong Chúa Giê-su. Vâng, Chúa Giê-su là Tin Mừng dành cho mọi dân tộc, lời loan báo mà Giáo hội không ngừng công bố, thể hiện trong cuộc sống và nói thỏ thẻ vào tâm hồn mọi người và mọi văn hóa. Trải nghiệm tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Kitô là ánh sáng thuần khiết biến đổi khuôn mặt và làm cho nó sáng ngời. Đời sống Kitô hữu nảy sinh từ việc chiêm ngưỡng dung nhan này, đó là vấn đề tình yêu, gặp gỡ hàng ngày với Chúa trong Lời và trong Bánh sự sống, và trong khuôn mặt người khác, nơi những người nghèo khổ, nơi họ Chúa Giê-su hiện diện.
Trong 31 năm hiện diện ở Mông Cổ, các linh mục, tu sĩ nam nữ và các nhân viên mục vụ đã thực hiện nhiều sáng kiến bác ái đa dạng, thu hút phần lớn năng lượng của mình và phản ánh khuôn mặt thương xót của Chúa Ki-tô, Người Samari nhân hậu. Theo một cách nào đó, đây là tấm danh thiếp của các nhà truyền giáo, làm họ được tôn trọng và quý mến vì những lợi ích đã mang lại cho nhiều người trong nhiều lĩnh vực khác nhau: từ hỗ trợ xã hội đến giáo dục, chăm sóc sức khỏe và quảng bá văn hóa.
Luôn hưởng nếm và nhìn xem Thiên Chúa
Đức Thánh Cha tiếp tục nói bằng cách mời gọi mọi người nếm thử và nhìn xem Thiên Chúa, luôn quay trở lại với cái nhìn nguyên thủy mà từ đó mọi sự đã được sinh ra. Thực vậy, nếu không, sức mạnh của chúng ta sẽ thất bại và dấn thân mục vụ có nguy cơ trở thành việc cung cấp các dịch vụ vô ích, một danh sách các nhiệm vụ nhưng cuối cùng chỉ mang lại sự mệt mỏi và thất vọng. Bằng cách tiếp xúc với khuôn mặt Chúa Ki-tô, tìm hiểu Người trong Kinh Thánh và chiêm ngưỡng Người trong sự thinh lặng tôn thờ trước Nhà tạm, chúng ta sẽ nhận ra Người trên khuôn mặt của những người mình phục vụ và sẽ cảm thấy được đánh động bởi một niềm vui sâu sắc, niềm vui đó để lại bình an trong tâm hồn ngay cả trong lúc khó khăn. Điều chúng ta cần, không phải những người bận bịu và phân tâm để lo cho các dự án, đôi khi có nguy cơ tỏ ra chán nản bực bội vì một cuộc sống chắc chắn không hề dễ dàng; nhưng chúng ta cần trở về nguồn, về với dung nhan Chúa Giê-su, về với sự hiện diện của Người để được hưởng nếm: Người là kho báu của chúng ta (Mt 13, 44), viên ngọc quý đáng phải tiêu tốn mọi thứ để có được (Mt 13, 45).
Giáo hội không có chương trình nghị sự chính trị để theo đuổi
Khi sai các môn đệ vào thế giới, Chúa Giê-su đã không sai họ đi truyền bá tư tưởng chính trị, nhưng làm chứng bằng cuộc sống của họ cho sự mới mẻ của mối tương quan với Chúa Cha, Đấng đã trở thành “Cha của chúng ta” (Ga 20,17), là nguồn của tình huynh đệ cụ thể với mọi người. Giáo hội ra đời từ lệnh truyền này là một Giáo hội nghèo, chỉ dựa vào đức tin đích thực, vào quyền năng loại trừ vũ khí của Đấng Phục Sinh, có khả năng xoa dịu nỗi đau khổ của nhân loại bị tổn thương. Đây là lý do vì sao các chính phủ và các tổ chức thế tục không có gì phải lo sợ trước hoạt động loan báo Tin Mừng của Giáo hội, bởi vì Giáo hội không có một chương trình nghị sự chính trị nào để theo đuổi, nhưng chỉ biết đến sức mạnh khiêm tốn của ân sủng Thiên Chúa và Lời của lòng thương xót và sự thật, có khả năng thúc đẩy điều tốt đẹp cho mọi người.
Giám mục, hình ảnh sống động của Chúa Ki-tô Mục Tử Nhân Lành,
Để hoàn thành sứ vụ này, Chúa Ki-tô đã ban cho Giáo hội Người một cơ cấu gợi lại sự hòa hợp tồn tại giữa các chi thể khác nhau của thân thể con người: Người là Đầu, tức là Đấng tiếp tục hướng dẫn Giáo hội, tuôn đổ vào Thân thể, tức là trong chúng ta, cùng một Thánh Thần của Người, hoạt động trước hết trong những dấu hiệu của sự sống mới là các Bí tích. Để đảm bảo tính chân thực và hiệu quả của Giáo hội, Người đã thiết lập chức tư tế, được đánh dấu bằng sự kết hợp mật thiết với Người, vị Mục Tử nhân lành, Đấng đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên.
Và trong quan điểm này, Đức Thánh Cha mời gọi các linh mục và tu sĩ nhìn nơi vị Giám mục không phải là một người quản lý, nhưng là hình ảnh sống động của Chúa Ki-tô Mục Tử Nhân Lành, Đấng quy tụ và hướng dẫn dân Người; một người môn đệ tràn đầy đặc sủng tông đồ để xây dựng tình huynh đệ của mọi người trong Chúa Ki-tô và luôn đâm rễ sâu hơn nữa vào quốc gia có bản sắc văn hóa cao quý này.
Mời gọi hiệp thông
Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến cụm từ hiệp thông. Giáo hội không được hiểu dựa trên một tiêu chuẩn thuần túy chức năng, theo đó Giám mục không phải là người điều khiển các thành phần khác nhau, thậm chí có thể dựa trên nguyên tắc đa số, nhưng dựa trên một nguyên tắc thiêng liêng, qua đó chính Chúa Giêsu hiện diện nơi con người của Giám Mục, bảo đảm sự hiệp thông trong Nhiệm Thể của Người.
Ngài mời gọi các nhà truyền giáo tiếp tục vun trồng sự hiệp thông và thực hiện điều này trong sự đơn sơ của một cuộc sống thanh đạm, noi gương Chúa, Đấng đã vào Giêrusalem trên lưng lừa và thậm chí còn bị lột trần trên Thánh giá. Và luôn gần gũi với mọi người, quan tâm đến họ, học ngôn ngữ của họ, tôn trọng và yêu mến nền văn hóa của họ, không để mình bị cám dỗ bởi sự an toàn trần thế, nhưng kiên vững với Tin Mừng qua một gương mẫu chính trực về đời sống thiêng liêng và luân lý.
Đức Mẹ đồng hành với các nhà truyền giáo
Đức Thánh Cha nhắc mọi người nhớ rằng, trong hành trình truyền giáo các nhà truyền giáo luôn có Mẹ Thiên quốc đồng hành. Mẹ thực hiện điều này một cách kín đáo và ân cần, như đã để cho mình được tìm thấy ở một bãi rác. Trong đống rác, bức tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội xinh đẹp xuất hiện. Mẹ không tì vết, không tội lỗi muốn đến gần chúng ta đến mức đi xuống tận cặn bã của xã hội, để từ đống rác rưởi bẩn thỉu mà sự thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa thánh thiện có thể tỏa sáng.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Khi ngước mắt nhìn lên Đức Maria, anh chị em có thể tìm được sự bình yên, khi thấy rằng sự nhỏ bé không phải là một vấn đề mà là một tài nguyên. Đúng vậy, Thiên Chúa yêu thích sự nhỏ bé và ưu thích thực hiện những điều vĩ đại qua sự nhỏ bé, như Đức Maria đã làm chứng (Lc 1,48-49). Anh chị em thân mến, đừng lo lắng về những con số nhỏ bé, những thành công muộn màng, những điều to lớn không xuất hiện. Đây không phải là đường lối của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, Đấng cao cả hơn cả trời trong sự bé nhỏ của mình, vì Mẹ đã đón nhận nơi mình Đấng mà các tầng trời không thể chứa được (1 V 8, 27). Chúng ta hãy phó mình cho Mẹ, cầu xin Mẹ một lòng nhiệt thành mới, một tình yêu nồng nàn không bao giờ mệt mỏi làm chứng cho Tin Mừng với niềm vui. Hãy tiếp tục: Chúa yêu thương anh chị em, Người đã chọn anh chị em và tin tưởng anh chị em. Tôi ở bên anh chị em và tôi nói với anh chị em bằng cả con tim: cám ơn anh chị em. Cám ơn vì chứng tá của anh chị em, cám ơn vì cuộc đời anh chị em đã dành cho Tin Mừng. Hãy tiếp tục như thế, kiên trì cầu nguyện và sáng tạo trong bác ái, kiên trì hiệp thông, vui tươi và hiền lành trong mọi sự và với mọi người”.
Sau bài nói chuyện, tất cả cầu nguyện với Kinh Kính Mừng, phép lành của Đức Thánh Cha. Ngài cũng làm phép tượng Đức Mẹ Thiên quốc, chào thăm một số người và lên xe trở về Toà Sứ thần. Kết thúc ngày thứ hai trong chuyến tông du Mông Cổ.
Nguồn: Vatican News
TIN LIÊN QUAN: