Lm. Tô-ma A-qui-nô Nguyễn Xuân Thuỷ
Cố Ngũ, với tên đầy đủ là Victor-Jean Aubert, sinh ngày 01 tháng 8 năm 1866 tại làng Saint-Cornier-des-Landes xinh đẹp thuộc tỉnh Orne, phía tây nước Pháp. Cha mẹ ngài làm nghề nông, khá giả và đạo đức, có bốn người con trong đó hai người dâng mình cho Chúa: một làm thừa sai và một là nữ tu của đan viện Benedictine. Từ nhỏ, khi cậu Victor tham gia giúp lễ, cha xứ thấy cậu nghiêm trang sốt sắng, lại thông minh, như một dấu hiệu muốn dâng mình cho Chúa, nên đã tự dạy tiếng La tinh cho cậu, sau đó gửi cậu lên học Tiểu chủng viện của Giáo phận.
Trong thời gian theo học ở Tiểu chủng viện, khát vọng mong muốn trở thành linh mục và nhà truyền giáo đến những xứ sở xa xôi ngày càng lớn lên thôi thúc Victor. Sau khi tham khảo ý kiến cha xứ, cậu càng xác tín hơn vào ơn gọi của mình nên đã xin gia nhập Chủng viện Thừa sai Paris ở phố Rue du Bac. Trong chủng viện thừa sai, thầy được các nhà đào tạo đánh giá là một người xuất sắc trong học hành và làm việc, nhận thức nhanh nhậy cộng với lòng nhiệt thành khát khao phục vụ Giáo Hội. Được chịu chức ngày 28 tháng 9 năm 1890, cha là một trong số 12 nhà truyền giáo được sai sang Viễn Đông ngày 26 tháng 11 năm đó, mà trong đó có bốn người được gửi tới Địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội).
Sau một thời gian đầu ở Kẻ Sở với Đức cha, nhận tên Việt Nam là Ngũ, cố được gửi về Kẻ Sét để học tiếng một thời gian. Sau thời gian học tiếng và làm quen với đời sống mới, Đức cha Phước gửi vị thừa sai trẻ đến truyền giáo ở một giáo điểm mới, nằm giữa Hà Nội và phà Mai Lĩnh, đó là vùng Hà Đông sau này, nơi mà Cố Loan (Le Page), vị thừa sai nhiệt thành đang rất thành công trong việc rao giảng Tin Mừng và thiết lập các cộng đoàn Ki-tô mới. Đây chính là mảnh đất mà cố Ngũ gắn bó với cả cuộc đời truyền giáo của mình suốt 40 năm. Trước tiên Cố Ngũ là phụ tá cho Cố Loan mở các giáo điểm mới, sau đó phụ trách xứ Phùng khoang, rồi Hà Đông để xây dựng các xứ đạo mới chung quanh.
Khi tiếp nhận Hà Đông, cả vùng này có 5 chuẩn xứ với tổng số khoảng 6.000 tín hữu, sau đó giáo dân càng ngày càng gia tăng lên thành 8 chuẩn xứ và 3 họ lẻ với 16.000 giáo dân. Cố Ngũ đã xây ba nhà thờ mới, cùng các nhà nguyện, nhà giáo lý cho từng xứ họ. Hà Đông lúc đó được xây dựng thành một thị trấn thủ phủ của tỉnh, có trại lính, có nhiều người đến làm ăn buôn bán, trong đó cũng có nhiều giáo dân ở các xứ lân cận như Thạch Bích, vì thế nhà thờ Hà Đông được xây dựng cùng với nhà xứ, nhà trường, để phục vụ cho họ.
Cùng với việc xây nhà thờ, cơ sở vật chất, ngài quan tâm hơn cả là xây ngôi nhà đức tin trong tâm hồn người tín hữu để thánh hoá họ cho Chúa. Trong suốt cuộc đời truyền giáo nhiệt thành, dù sau này tuổi cao sức yếu, ngài vẫn đều đặn tổ chức các lớp học giáo lý kinh bổn, tĩnh tâm cho giáo dân, có khi ở Hà Đông, có khi ở những giáo điểm của những cộng đoàn tân tòng. Ngài không ngừng nỗ lực giảng dạy, giải tội, dạy giáo lý trẻ em. Ngài nâng đỡ cộng đoàn cả thể xác và tinh thần, thậm chí đảm nhận cả trách nhiệm bảo vệ và đấu tranh cho quyền lợi công dân của những người dân thường, ít học.

Cố Ngũ là một người giỏi ngôn ngữ tiếng Việt, thông thạo các phong tục tập quán truyền thống và luật pháp của người Việt, cộng thêm các nhân đức và phẩm giá hoàn hảo, lòng tận tuỵ với mọi người không kể lương giáo, ngài có tầm ảnh hưởng lớn lao không chỉ trong cộng đoàn dân Chúa, mà cả với chính quyền và những người lương dân trong tỉnh Hà Đông. Các đấng Bề trên địa phận đều coi trọng Cố Ngũ vì tinh thần tốt, tính thẳng thắn chính trực trong cách phán đoán. Đức cha Đông bổ nhiệm Cố vào Ban Tư vấn và là cha chính (provicaire). Đức cha Thịnh cũng tin dùng ngài tương tự và chỉ đồng ý cho ngài nghỉ chức cha chính sau nhiều lần ngài nài nỉ xin từ chức vì lý do tuổi tác và sức khỏe.
Trong sáu năm cuối đời, vì bệnh thấp khớp nặng cũng như tuổi già, cố Ngũ hầu như phải ở trong phòng, nhiều lần phải nhập viện Saint-Paul để chữa trị. Cố không thể tham gia các hoạt động mục vụ tông đồ được, nhưng cố vẫn dùng hết sức lực của mình để giúp đỡ mọi người như các thủ tục hành chính cho những người dân lao động, chia sẻ kinh nghiệm mục vụ với các linh mục trẻ, giáo lý viên, ban hành giáo và những ai tìm đến với ngài.
Ngày 28 tháng 9 năm 1940, nhân dịp kỷ niệm kim khánh linh mục, ngài vui mừng được Đức Thánh Cha gửi phép lành đặc biệt. Ở nhà xứ Hà Đông, Cố Ngũ được các bác sĩ ở tỉnh theo dõi điều trị, được cha phó là Cố Ngọc (Simonnet), các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá và giáo dân chăm sóc tận tình. Bệnh tình của Cố càng ngày càng trở nên trầm trọng trong năm 1941, nên đến cuối đó năm cố phải trở lại bệnh viện Saint-Paul điều trị. Ngày 03 tháng 02 năm 1942, ngài đã thanh thản ra đi sau một cuộc đời linh mục nhiệt thành với bao lao lực làm việc canh tác vườn nho của Chúa, toàn tâm vì lợi ích các linh hồn.
(Dựa theo Hồ sơ Thừa sai của MEP, số 1927)
Trích “Nội san Nhà Chung”, số 32


TIN LIÊN QUAN: