Cố Jean-Baptiste Dronet Ân – Vị thừa sai nhiệt thành xây dựng Cộng đoàn Thủ đô Hà Nội

(Dựa theo Hồ sơ các thừa sai của MEP – số 1597)

Cố Ân, tên đầy đủ tiếng Pháp là Jean-Baptiste Dronet, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1855 tại làng Vieillevigne, thuộc Giáo phận Nantes ở miền Đông nước Pháp. Gia đình ngài có 9 anh chị em thì có 3 người dâng mình cho Chúa: 1 linh mục, 1 thầy trợ sĩ và 1 nữ tu. Thời niên thiếu, ngài bắt đầu đi học trường tiểu học của các sư huynh dòng Thánh Gabriel, nhưng rồi khi lên trung học phải bỏ dở việc học hành để về giúp công việc đồng áng cho gia đình, mặc dù ngài rất ước ao trở thành linh mục. Đến quãng năm 18 tuổi, ngài mới có thể tiếp tục chương trình trung học ở Tiểu chủng viện Guérande. Với tính cần cù, chịu khó học hành, nhưng vì lớn tuổi, ngài gặp khó khăn về trí nhớ khi theo chương trình trung học để cuối cùng cũng có thể vào học ở Đại chủng viện Nantes. Ngài được chịu chức linh mục ngày 29 tháng 6 năm 1883.

Sau khi chịu chức, vị tân linh mục ước muốn được ra đi đến những miền Viễn Đông xa xôi để truyền giáo, nên ngày 30 tháng 7 năm 1883 ngài xin gia nhập Hội Thừa sai Paris. Sau khóa huấn luyện về truyền giáo, Cha Dronet được gửi đến truyền giáo tại Địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội). Cha đã lên tầu biển ngày 16 tháng 7 năm 1884, rời khỏi nước Pháp để đi Việt Nam.

Nhà truyền giáo trẻ được Đức cha Phước đón tiếp tại nhà chung Kẻ Sở, Đức cha đặt trên Việt cho ngài là Ân (nghĩa là ơn ban), sắp xếp để ngài ở lại Kẻ Sở để học tiếng. Việc học tiếng Việt đối với cố Ân không thuận lợi lắm vì ngài không có trí nhớ tốt, nhưng ngài đã rất cố gắng và chịu khó chuyên cần bền bỉ bù lại. Sau một năm, ngài được gửi tới xứ Bút Đông, để làm quen với các công việc mục vụ, vì xứ này là một xứ lớn, truyền thống, mảnh đất của các đấng tử đạo.

Năm 1886, Đức cha Phước có ý định mở một trường trung học Pháp-Việt đầu tiên ở Hà Nội, trường Acanthe, ngài đã giao cho cố Ân lo việc này. Cố đã làm giáo viên và hiệu trưởng trong vòng 9 năm, đến năm 1893, trường đã có tới 200 học sinh. Cố cũng đồng thời lo huấn luyện các linh mục trẻ mới tới Việt Nam và nhận thêm trách nhiệm làm tuyên uý nhà tù ở Hà Nội.

Năm 1895, Đức cha Đông mời các Sư huynh La Salle sang mở trường Trung học Puginier ở Hà Nội dạy theo chương trình Pháp, thay thế trường Acanthe, nên cố Ân được bổ nhiệm về giúp Cố Lecornu Lễ ở Nhà Thờ Lớn Hà Nội, phụ trách giáo dân người Việt Nam, là những người từ các xứ ở nông thôn lên Hà Nội làm ăn. Cố Ân nhiệt thành trong những công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Vào thời kỳ đó ở miền Bắc thường xẩy ra những nạn dịch tả, cố thường đến chăm sóc những bệnh nhân tại những bệnh viện dã chiến, nâng đỡ tinh thần cho họ. Năm 1911, cố thành lập những trại đón tiếp để chăm sóc những người già yếu ngoại giáo và lo cho họ khi họ muốn trở lại. Ngài cũng tổ chức những buổi sinh hoạt cho nhóm quân nhân đóng quân ở Hà Nội, những buổi nói chuyện và những hoạt động giải trí cho họ.

Sau khi cố Lecornu Lễ qua đời ngày 12 tháng 2 năm 1922 thì cố Ân được bổ nhiệm làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Là một con người nhiệt thành, làm việc không ngừng nghỉ, ngài dành hết sức lực tinh thần và vật chất để phục vụ giáo xứ, làm cho giáo xứ ngày càng phát triển. Ngài tự tay bầy biện trang trí nhà thờ, đồ thánh và yêu thích tổ chức các lễ nghi trang nghiêm với những vẻ đẹp huy hoàng của phụng vụ. Hàng năm ngài tổ chức rước Thánh Thể dịp lễ Mình Thánh qua các phố phường để khuyến khích lòng sùng kính, yêu mến Chúa nơi giáo dân. Ngài cũng lo mở mang và phát triển cộng đoàn Ki-tô hữu ở Hà Nội, như mua đất để xây một họ đạo Thánh An-tôn ở phía Nam thành phố, sau trở thành xứ Hàm Long. Từ năm 1923, ngài bắt tay chuẩn bị xây một nhà thờ mới với tước hiệu “Nữ Vương các Thánh Tử đạo” ở phía Đông-Bắc Thành phố, nơi thánh Vénard Ven chịu tử đạo, nay quen gọi là nhà thờ Cửa Bắc. Ngôi nhà thờ mới được Đức cha Đông làm phép viên đá đầu tiên ngày 4 tháng 12 năm 1927 và được khánh thành ngày 1 tháng 2 năm 1931. Hai cộng đoàn mới này cố Ân đã nhờ Cố Dépaulis Hương là quản lý Nhà Chung giúp ngài lo xây dựng và tổ chức để thành hai giáo xứ mới tách ra khỏi xứ Nhà Thờ Lớn.

Cố Ân cũng để ý thành lập và tổ chức các hội đoàn đạo đức trong xứ, nhất là phong trào thiếu niên và thanh niên, ngài mở nhiều khoá học giáo lý. Ngài cũng nhiệt tâm với các công tác xã hội như lập nhà thương và trại tế bần, xây nhà trọ ở xung quanh nhà thờ giúp những người lao động nghèo có chỗ ở. Những đóng góp xã hội của ngài được đánh giá cao nên năm 1933, nhân dịp kỷ niệm Kim khánh linh mục, ngài được chính quyền bảo hộ tặng huân chương Hiệp sĩ Bắc Đẩu bội tinh và triều đình tặng ngài tước hiệu “Con rồng An Nam”.

Năm 1937, sau những nỗ lực cống hiến, cố Ân đã nghỉ công việc mục vụ về hưu tại ngôi nhà Đức cha Phước và Đức cha Đông đã ở tại Nhà Chung Hà Nội. Tháng 12 năm 1938, sức khoẻ ngài suy nhược dần, ngài được đưa đến nhà thương Saint-Paul. Sau vài ngày, ngài xin được trở về Nhà Chung khi thấy sức khoẻ như cạn kiệt. Ngày 30 tháng 1 năm 1939, ngài được cố Pédebideau Hoá, quản lý Nhà Chung, ban các các phép cuối cùng, sau đó, trong khi Đức cha Chaize Thịnh đọc những lời nguyện phó dâng linh hồn, Cố Dronet đã trút hơi thở trong tay Chúa sau 55 năm đi truyền giáo.

Mặc dù luôn thương nhớ quê hương, Cố Dronet Ân chưa một lần trở về nước Pháp, ngài để toàn tâm toàn sức cho xứ truyền giáo, ngài đã phục vụ cộng đoàn Hà Nội suốt 53 năm để từ một cộng đoàn bé nhỏ ban đầu đã phát triển thành những giáo xứ Chính Toà lớn mạnh, sinh ra các giáo xứ mới trong nội thành như ngày nay.

Lm. Tô-ma A-qui-nô Nguyễn Xuân Thủy

(Trích “Nội san Nhà Chung”, Số 28)