Cố Berthet Tâm (1851-1919) – Nhà truyền giáo âm thầm nhưng đầy tràn tình yêu trong tâm hồn

Lm. Tô-ma Nguyễn Xuân Thủy

Cố Tâm sinh ngày 18 tháng 2 năm 1851 trong một gia đình có mười ba người con tại làng Traize nhỏ bé, thuộc Giáo phận Chambéry, vùng Savoie, gần chân núi Alpes, biên giới với nước Ý. Sau những năm học ở Giáo hoàng tiểu chủng viện Avignon, ngài xin gia nhập Chủng viện Hội Thừa sai Paris tháng 9 năm 1872 với ước nguyện đi truyền giáo. Được thụ phong linh mục ngày 10 tháng 10 năm 1875, hai tháng sau nhà truyền giáo trẻ đã hăng hái xuống tầu ra đi đến miền đất truyền giáo ngài được gửi tới là Địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội).

Khi tới Kẻ Sở, Đức cha đặt tên Việt cho ngài là Tâm, và gửi ngài tới ở với Cố Thoral Hiển, hạt trưởng Phát Diệm, để học tiếng và công việc tông đồ. Sau này cha thường nhắc lại rằng mình thật may mắn được đào tạo trong một môi trường tốt như vậy. Sau khoảng hai năm cha được gọi về Toà Giám mục Kẻ Sở để làm thư ký riêng cho Đức cha trong khoảng bốn năm. Năm 1882, cha được bổ nhiệm làm giáo sư Tín lý tại Đại Chủng viện Kẻ Sở, nơi gắn bó với ngài cho đến hết đời.

Ngay từ khi mới tới Việt Nam, sức khỏe của Cố Tâm không tốt lắm, ngài bị bệnh hen suyễn hành hạ, chứng thiếu máu làm ảnh hưởng đến trí nhớ và cản trở công việc dạy học và tư duy. Mặc dù vậy ngài luôn lo lắng trách nhiệm và khiêm tốn nhìn nhận những hạn chế của mình để biết cách làm việc theo khả năng mình có thể thực hiện. Là một người thích tìm tòi nghiên cứu, ngài thích quan sát và ghi chép tỉ mỉ về thời tiết, hiện tượng thiên nhiên ở địa phương, sưu tầm các động vật sống trong vùng để nghiên cứu sinh vật học; vì vậy, căn phòng của ngài giống như một nhà bảo tàng những bộ sưu tầm động thực vật học. Ngài cũng dành nhiều công nghiên cứu và thử nghiệm xem các loại nho trồng trong vùng có thể chế biến thành rượu lễ được không.

Cố Tâm còn là người có năng khiếu về kỹ thuật cơ khí, bất cứ khi nào mọi người cần, cố sẵn sàng giúp đỡ, đặc biệt giúp lắp đặt đàn organ ống ở nhà thờ Kẻ Sở năm 1883. Ngài cũng là một tấm gương mẫu mực như một linh mục chăm chút chu đáo và tôn trọng những đồ phụng vụ. Những áo lễ của ngài dùng hàng ngày luôn được gìn giữ đẹp đẽ từ khi chịu chức cho đến cuối đời đến nỗi không cần phải thay áo mới. Ngài sống giản dị, tự lo cuộc sống cho mình từ những công việc may vá quần áo, sửa chữa giầy dép v.v… những điều mà ngài nói là đã học nơi chủng viện Hội Thừa sai. Đúng như tên Việt Nam người ta gọi ngài là Cố Tâm, ngài có một trái tim nhân hậu, dịu dàng, khiêm nhường và tốt bụng, luôn thích phục vụ mọi người và luôn lo lắng là mình chưa chu toàn tốt bổn phận của mình. Tất cả những gì ngài có, ngài đều dành để giúp đỡ người nghèo.

Về cuối đời, ngoài bệnh hen suyễn và thiếu máu, Cố Tâm còn mắc bệnh xơ gan nặng, một căn bệnh rất phổ biến ở vùng nhiệt đới lúc đó. Đã hai lần ngài đã được giải phẫu, người ta phải cắt bỏ hai xương sườn của ngài để tiếp cận phần gan bị viêm. Cuối cùng bệnh thiếu máu ngài đã chịu đựng suốt 20 năm đã làm cho ngài kiệt sức. Sau tuần tĩnh tâm năm vào tháng 1 năm 1919, ngài lên Hà Nội khám bệnh, các bác sĩ cho biết bệnh tình của ngài không thể can thiệp thêm gì được nữa. Máu của ngài bị viêm nhiễm và dần dần tấn công vào não.

Bước vào Chúa nhật V mùa Chay, ngài không còn nói được nữa, nhưng vẫn nghe và hiểu được những người xung quanh nói chuyện và vẫn có thể rước lễ được hằng ngày cho đến Thứ Bảy thì ngài mất dần ý thức. Những cơn đau thắt hành hạ ngài đến trưa Chúa nhật Lễ Lá ngày 13 tháng 4, ngài đã an nghỉ trong Chúa và được an táng trong nghĩa trang dành cho các linh mục ở trong khuôn viên Chủng viện và Nhà Chung Kẻ Sở.

Cuộc sống của Cố Tâm tưởng chừng như không có công trình gì vĩ đại, nhưng giống như bao vị thừa sai khác, ngài có một tâm hồn dâng hiến cho Chúa thật đẹp: rời xa quê hương thân yêu, chưa một lần trở về, để dành tất cả trái tim và cuộc sống của mình phục vụ công cuộc rao giảng Tin Mừng cho anh em ở miền đất xa xôi này.

(Viết theo Hồ sơ các thừa sai của MEP số 1281)

Trích “Nội san Nhà Chung” – Số 30